0240.73088281
Logo

Thực trạng thực hiện, những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và những điều kiện để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS

1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.

1.1.  Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nguyên tắc.

Từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS đã cho thấy BLTTDS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở nắm vững các quy định pháp luật, Tòa án về cơ bản đã giải quyết các tranh chấp một cách công minh, khách quan và đúng pháp luật trên cơ sở phát huy quyền chủ động của đương sự, tổ chức các phiên tòa theo tinh thần tranh tụng dân chủ, công khai. Những điểm mới của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011 về nguyên tắc tranh tụng trong TTDS đã tạo điều kiện cho Tòa án thực hiện tốt hơn việc tôn trọng đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Các phán quyết của Tòa án đã căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ đã được đưa ra tại phiên tòa nên chất lượng giải quyết, xét xử tiếp tụng được bảo đảm.

1.2.  Những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện nguyên tắc.

Trong quá trình thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS, tuy đã được những kết quả nhất định nhưng thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều những hạn chế khiến cho việc thực hiện nguyên tắc chưa được đảm bảo tốt nhất. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là hạn chế đến từ một số nội dung trong các quy định của pháp luật. BLTTDS năm 2015 chưa quy định về chế tài đối với những trường hợp đương sự vi phạm quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ, tài liệu cũng như hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Điều này sẽ làm cho quy định về thời hạn và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ không phát huy được hết tác dụng. Ngoài ra, về trình tự thủ tục tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải tại Điều 210 BLTTDS năm 2015, gần như tách riêng thành hai phần kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không có sự kết hợp, gắn kết nên nhiều thủ tục đã thực hiện trong phần trước lặp lại trong phần sau, dẫn đến kéo dài thời gian không cần thiết của phiên họp.

Thứ hai là những hạn chế đến từ phía đương sự. Trong một số trường hợp, các đương sự vẫn thực hiện nguyên tắc này không đúng như đương sự đưa ra yêu cầu không phù hợp và bị Tòa án không chấp nhận yêu cầu. Mặc khác, do trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự còn hạn chế nên nhiều trường hợp đương sự mặc dù không cung cấp được chứng cứ, Tòa án đã giải thích pháp luật nhưng họ vẫn không làm văn bản yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ hoặc có đương sự ỷ lại, phụ thuộc vào Tòa án và cho rằng việc xác minh, thu thập chứng cứ là nghĩa vụ của Tòa án. Thậm chí trong nhiều vụ án, đương sự không hợp tác với Tòa án, cố tình né tránh, gây khó khăn nhằm kéo dài vụ án để chậm thực hiện nghĩa vụ. Những việc làm trên sẽ gây ra khó khăn cho việc thực hiện tranh tụng của đương sự phía bên kia cũng như cản trở việc giải quyết vụ án của Tòa án.

Thứ ba là những hạn chế đến từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng. Có nhiều vụ việc Tòa án giải quyết không đúng, không đảm bảo quyền tranh tụng của các đương sự dẫn đến số lượng các bản án bị hủy, sửa còn nhiều. Cụ thể như Tòa án không triệu tập đầy đủ đương sự tham gia tố tụng, xét xử vắng mặt đương sự dẫn đến không đảm bảo quyền tham gia tố tụng của các đương sự. Tòa án giải quyết không đầy đủ hoặc vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự hoặc tiến hành giải quyết khi chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Thậm chí trong quá trình thu thập chứng cứ, có những chứng cứ mà Tòa án thu thập được mâu thuẫn với nhau nhưng Tòa án lại không có cơ sở pháp lí để sử dụng chứng cứ nào căn cứ cho việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc tranh tụng tại phiên tòa chưa thực sự hiệu quả, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa không được tiến hành hoặc tiến hành đại khái, không phát huy được tính chủ động của các bên đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự.

Thứ tư là những hạn chế đến từ phía người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Số vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hiện nay đã cải thiện nhưng vẫn còn khiêm tốn nhất là ở nông thôn, miền núi khi mà điều kiện kinh tế chưa cho phép họ thuê luật sư. Kể cả khi có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia thì do trình độ chuyên môn thấp nên chưa đưa ra được những lập luận sắc bén, thuyết phục khi tranh tụng tại phiên tòa. Vẫn còn những trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chỉ thực hiện một cách qua loa, đại khái.

2. Những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng TTDS.

Thứ nhất là kiến nghị việc hoàn thiện các quy định pháp luật về tranh tụng trong TTDS. Cụ thể, để nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được thực thi trên thực tế thì trong quy định về giao nộp chứng cứ, BLTTDS năm 2015 cần bổ sung quy định cụ thể về hậu quả đối với trường hợp đương sự không sao gửi, thông báo hoặc có sao gửi, thông báo nhưng không đầy đủ tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án cho bên đương sự còn lại. Có thể bổ sung theo hướng "Tòa án có quyền không sử dụng tài liệu, chứng cứ đó". Ngoài ra cũng cần bổ sung thêm quy định về các chế tài trong trường hợp đương sự không thực hiện việc giao nộp chứng cứ đúng hạn. Đối với Tòa án, trong trường hợp Tòa án vi phạm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, phán quyết của Tòa án sẽ trở thành căn cứ để tuyên hủy.

Thứ hai là nâng cao nhận thức pháp luật tố tụng của đương sự nói riêng và người dân nói chung. Việc hiểu và thực hiện pháp luật tố tụng, đặc biệt là việc tranh tụng đối với người tham gia tố tụng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và cần thiết. Khi người tham gia tố tụng hiểu và thực hiện đúng pháp luật tố tụng, họ sẽ bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp mình cũng như của người khác. Qua đó giúp cho giúp cho vụ việc được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Do đó, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức pháp luật về TTDS nói chung và pháp luật về tranh tụng nói riêng để người dân luôn hiểu và nắm rõ các quy định pháp luật.

Thứ ba là xây dựng đội ngũ chủ thể tiến hành tố tụng dân sự chuyên nghiệp. Cần phải đẩy mạnh công tác công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử, giải quyết vụ án dân sự cho Thẩm phán tại Tòa án các cấp. Đồng thời cũng cần nâng cao kỹ năng tham gia xét xử, xây dựng những tiêu chí cụ thể đối với Hội thẩm nhân dân để khắc phục tình trạng sự tham gia của Hội thẩm nhân dân chỉ mang tính hình thức

Thứ tư là tăng cường Luật sư, trợ giúp viên pháp lý, mở rộng đối tượng được nhận sự trợ giúp pháp lý miễn phí. Đảm bảo tối thiếu trong các vụ án dân sự có người tham gia tố tụng là người có hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc ít người, người sinh sống ở các vùng sâu vùng xa đề nhận được trợ giúp pháp lý. Đề xuất nghiên cứu xây dựng chế độ Luật sư công. Đồnng thời cũng cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, hiểu biết pháp luật tố tụng dân sự nói chung và các quy định về tranh tụng trong TTDS nói riêng đối với những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ năm là hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Các Tòa án phải được trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho hoạt động xét xử. Hệ thống các tổ chức thực hiện định giá tài sản, giám định tư pháp nhất là giám định các lĩnh vực chuyên sâu phải có cơ chế khích lệ thành lập và hoạt động có hiệu quả.

3. Điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

Để việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS trên thực tế đúng với quy định pháp luật và đạt được hiệu quả tốt nhất, thì cần phải có những điều kiện đảm bảo nhất định cho việc thực hiện đó. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là điều kiện đảm bảo liên quan đến quy định của pháp luật. Bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS phải gắn liền với sự điều chỉnh của pháp luật. Hiệu quả của quá trình tranh tụng một phần được quyết định bởi các quy định về trình tự thủ tục, nội dung, hình thức và cách thức thực hiện các quyền các quyền TTDS của đương như quyền cung cấp chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa... từ khi khởi kiện vụ án đến chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, quy định của pháp luật là hành lang pháp lý xác định trách nhiệm của Nhà nước trên các phương diện tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS.

Thứ hai là điều kiện đảm bảo liên quan đến các cơ quan, người cơ thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS sẽ không thể được đảm bảo nếu cơ quan, người tiến hành tố tụng không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cần phải nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm và năng lực chuyên môn cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời giáo dục thường xuyên về mặt nhận thức việc họ phải luôn tôn trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự.

Thứ ba là điều kiện đảm bảo liên quan đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để đảm bảo cho nguyên tắc trên thực hiện tốt, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Theo đó, cần phải củng cố, kiện toàn, phát triển đội ngũ luật sư trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng và quan trọng là phải có sự phân bố đều giữa các tỉnh, thành phố. Phát triển và nâng cao trình độ, kỹ năng hành nghề pháp luật cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, dân tộc thiểu số cao, trình độ dân trí thấp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng cần phải rèn luyện cho mình bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và lương tâm nghề nghiệp trong sáng cũng như nâng cao trình độ chuyên môn trong lĩnh vực dân sự.

Thứ tư là điều kiện đảm bảo liên quan đến đương sự nói riêng mà toàn thể người dân nói chung. Điều quan trọng đầu tiên là cần nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường công tác giáo dục và phổ biến pháp luật. Qua đó giúp người dân tự ý thức được việc tuân thủ pháp luật cũng như tầm quan trọng của việc bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của bản thân. Đối với đương sự thì phải đảm bảo chắc chắn việc họ luôn nắm rõ các quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình tố tụng, được giải thích, hướng dẫn kịp thời các quy định mà họ chưa hiểu. Trong những trường hợp quyền lợi bị xâm phạm, không được đảm bảo thì các đương sự cần mạnh dạn lên tiếng, tố cáo để có những biện pháp xử lý, ngăn chặn, tránh những trường hợp "sợ hãi" trước cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không dám đòi lại quyền lợi chính đáng của bản thân.

Thứ năm là điều kiện đảm bảo về cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc. Để đảm bảo việc giải quyết tranh chấp của Tòa án không mắc phải những sai lầm, tránh việc lạm quyền, thiếu công bằng và xâm phạm quyền tranh tụng của đương sự thì cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, việc kiểm sát này không phải là can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án hoặc xâm phạm đến quyền tranh tụng của đương sự. Xây dựng được cơ chế giám sát cụ thể hơn nữa để phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp nói chung và trong việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng nói riêng. Với sự phát triển của công nghệ hiện nay, các phương tiện thông tin truyền thông cũng có thể góp phần giám sát gián tiếp thông qua việc chủ động đưa tin, làm sáng tỏ những sai phạm, thiếu sót trong quá trình tố tụng dân sự.

Tóm lại, có thể thấy, bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản và có ý nghĩa, tầm quan trong to lớn trong TTDS. Nội dung của nguyên tắc đã được ghi nhận và quy định trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản pháp luật của nước ta. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện quyền của các đương sự trong vụ án dân sự. Do đó, cần phải có những giải pháp khắc phục tình trạng trên thông qua việc đảm bảo các điều kiện thực hiện nguyên tắc trên thực tế. Việc coi trọng và thực hiện đúng đắn nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án dân sự được công bằng, khách quan, nâng cao niềm tin của người đối với cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động TTDS nói riêng.
Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

Các tin khác