0240.73088281
Logo

Nguyên nhân và phạm vi của xung đột pháp luật

Để thực hiện chủ quyền của mình trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, các quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, do có sự giao lưu về kinh tế, văn hóa, khoa học... giữa các nước, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì sự phát sinh các quan hệ có yếu tố nước ngoài ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặt khác, các hệ thống pháp luật của các quốc gia đều bình đẳng với nhau. Nên khi các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nảy sinh cũng đồng nghĩa với việc phát sinh hiện tượng cả hai (hay nhiều) hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh. Khoa học tư pháp quốc tế gọi đó là hiện tượng "xung đột pháp luật". Vậy cụ thể nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật là gì và hiện tượng này có phạm vi như thế nào?

I. Khái quát chung về xung đột pháp luật.

Xét một ví dụ như sau về vấn đề độ tuổi kết hôn của công dân. Một nam công dân Việt Nam muốn kết hôn với một nữ công dân Trung Quốc. Lúc này, vấn đề cần giải quyết là luật pháp nước nào sẽ điều chỉnh quan hệ hôn nhân này hay nói chính xác hơn là họ sẽ tiến hành các thủ tục kết hôn theo luật nước nào. Giả sử, hai công dân này đều thỏa mãn các điều kiện về kết hôn của pháp luật Trung Quốc và Việt Nam, lúc đó vấn đề chọn luật nước nào không còn quan trọng vì theo pháp luật nước nào thì họ cũng được phép kết hôn. Nhưng nếu nữ công dân Trung Quốc mới 19 tuổi thì theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Trung Quốc, nữ công dân trong trường hợp này chưa đủ độ tuổi kết hôn do pháp luật Trung Quốc quy định nữ phải từ đủ 20 tuổi trở lên mới được đăng ký kết hôn. Trong khi đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 của Việt Nam thì quy định độ tuổi được phép kết hôn đối với nữ là 18 tuổi. Tức là theo pháp luật Việt Nam thì nữ công dân Trung Quốc lại đủ điều kiện kết hôn. Mặt khác, cả luật Việt Nam và luật Trung Quốc đều có khả năng được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này. Đây chính là hiện tượng xung đột pháp luật.

Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế)[1].

Trong khái niệm trên, xung đột pháp luật không được hiểu là sự xung khắc hay sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, đó là một hiện tượng riêng có, hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, sẽ xuất hiện khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế. Ngoài ra cũng cần phải hiểu xung đột pháp luật là sự "xung đột" giữa các hệ thống pháp luật của các nước chứ không phải giữa các quy phạm pháp luật hay chế định luật. Do đó, thực tế sẽ xảy ra trường hợp trong quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau có thể tìm thấy các quy phạm, thậm chí các chế định giống nhau, hoặc tương tự như nhau, nhưng không có nghĩa là các hệ thống pháp luật đó là như nhau.

Khi nói tới xung đột pháp luật là nói tới sự xung đột giữa các hệ thống pháp luật của các nước khác nhau chứ không phải các bang trong một nước nếu đó là nhà nước liên bang. Bởi vấn đề mà tư pháp quốc tế điều chỉnh vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia, nó nảy sinh giữa các công dân, pháp nhân của quốc gia này với công dân, pháp nhân của quốc gia khác chứ không phải thuần túy giữa công dân, pháp nhân của một quốc gia với nhau, kể cả là một quốc gia liên bang. Tuy nhiên, thực tế có những trường hợp khi xác định được luật áp dụng là luật của nhà nước liên bang mà ở đó luật liên bang không quy định hoặc giành quyền quy định cho luật của bang thì cuối cùng để điều chỉnh quan hệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng luật của bang thay vì áp dụng của liên bang.

Xung đột pháp luật chỉ xác định khả năng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của hai hay nhiều hệ thống pháp luật liên quan chứ không phải là việc tất cả các hệ thống đó đều được áp dụng để điều chỉnh quan hệ. Lí do là bởi các hệ thống pháp luật khác nhau không thể cùng một lúc điều chỉnh một quan hệ cụ thể được.

II. Nguyên nhân và phạm vi của hiện tượng xung đột pháp luật.

1. Nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật.

1.1.  Nguyên nhân khách quan.

1.1.1. Do pháp luật của các nước có sự khác nhau.

Pháp luật do nhà nước xây dựng nên, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội... của nước mình. Vì vậy có rất nhiều yếu tố làm cho pháp luật của các nước trên thế giới không giống nhau.

Thứ nhất là do nguyên nhân về chính trị, kinh tế, xã hội. Các quốc gia đều tồn tại dựa trên một nền tảng kinh tế nhất định với một chế độ sở hữu tương ứng. Mà chế độ sở hữu là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng trong đó pháp luật là một cấu thành quan trọng. Vì vậy, dựa trên một chế độ sở hữu nhất định thì pháp luật cũng được hình thành để phản ánh một cách phù hợp và tương xứng. Trên thế giới có những quốc gia được tạo dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng ngược lại cũng có những quốc gia được tạo dựng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Từ các chế độ sở hữu đó mà pháp luật được xây dựng ở các quốc gia này cũng có sự khác biệt căn bản.

Thứ hai là do cách giải thích, áp dụng pháp luật khác nhau và trình độ phát triển ở các nước là không đồng đều. Không phải các nước có cùng chế độ sở hữu, có cùng chế độ chính trị thì pháp luật sẽ giống nhau mà pháp luật các nước này vẫn có những quy định khác nhau, bởi cách giải thích pháp luật khác nhau, áp dụng quy định khác nhau và hơn nữa là trình độ phát triển ở các nước là không đồng đều.

Thứ ba là do các nước có tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo... khác nhau. Điều này cũng ảnh hưởng đến sự khác nhau giữa các hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới.

1.1.2. Do đối tượng điều chỉnh có sự hiện diện của yếu tố nước ngoài.

Các quan hệ mà tư pháp quốc điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, các quan hệ này luôn liên quan tới ít nhất là hai hoặc có thể là nhiều hơn hai hệ thống pháp luật. Mặt khác, các hệ thống pháp luật là bình đẳng với nhau nên các hệ thống pháp luật đều có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ khi có xung đột pháp luật nảy sinh.

1.2.  Nguyên nhân chủ quan.

Nguyên nhân chủ quan ở đây chính là có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước.

Thực tế có những quan hệ pháp luật nảy sinh, mặc dù hệ thống pháp luật của các nước là khác nhau, cũng có sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài, tức là thỏa mãn điều kiện của nguyên nhân khách quan nêu trên nhưng vẫn không có xung đột pháp luật. Đó là các quan hệ trong lĩnh vực luật công, điển hình là các quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài. Việc không có xung đột pháp luật trong các lĩnh vực này xuất phát từ việc thiếu nguyên nhân chủ quan hay nói cách khác là các quốc gia tự nhận thấy không thể chấp nhận hiện tượng xung đột pháp luật, tức là các quốc gia từ chối việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong các lĩnh vực đó.

Trong khi đó, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật. Do bản chất của các quan hệ này là các quan hệ dân sự, các quan hệ đời thường diễn ra hàng ngày giữa người dân với nhau, họ là các chủ thể ngang quyền và bình đẳng với nhau. Chính yếu tố bình đẳng trong các quan hệ này là cơ sở để có thể đặt ra vấn đề bình đẳng trong luật pháp giữa các nước và khi quan hệ liên quan đến nhiều quốc gia thì nhiều hệ thống pháp luật tương ứng sẽ có thể được cân nhắc áp dụng để điều chỉnh quan hệ cụ thể đang xem xét, tức là có xung đột pháp luật. Nói cách khác, do đặc trưng của quan hệ dân sự không quá "nghiêm trọng" hay ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà các quốc gia đều thừa nhận khả năng có thể áp dụng pháp luật nước ngoài với những điều kiện nhất định.

Tóm lại, các quan hệ tư pháp quốc tế làm nảy sinh các điều kiện khách quan để hiện tượng xung đột pháp luật xuất hiện, thêm vào đó với bản chất "bình dân" của mình thì nhà nước (yếu tố chủ quan) cũng thừa nhận, cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài. Đấy là điều kiện cần và đủ để hiện tượng xung đột pháp luật tồn tại trong các quan hệ tư pháp quốc tế.

Như vậy, lí do khách quan là tiền đề quan trọng để xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật, lí do chủ quan là lí do quyết định có tồn tại xung đột pháp luật hay không. Nếu lí do khách quan được đáp ứng, quan hệ lại rơi vào nhóm được nhà nước thừa nhận có thể áp dụng pháp luật nước ngoài thì xung đột pháp luật nảy sinh như quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nếu lí do khách quan thỏa mãn nhưng lại không có sự đồng ý cho áp dụng pháp luật nước ngoài trong quan hệ đó thì hiện tượng xung đột pháp luật cũng không thể nảy sinh như các quan hệ trong lĩnh vực luật công có yếu tố nước ngoài.

2. Phạm vi có hiện tượng xung đột pháp luật.

Thứ nhất là trong lĩnh vực luật công sẽ không xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật.

Như đã trình bày ở phần nguyên nhân của xung đột pháp luật, trong các lĩnh vực luật công như hình sự, hành chính sẽ không xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật do các nước không thừa nhận việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong các lĩnh vực này, tức là không đáp ứng được nguyên nhân chủ quan. Cụ thể như sau:

Giả sử các quan hệ này nảy sinh và cho rằng có xung đột pháp luật, tức là có hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ phải có sự chọn lựa trong số các hệ thống pháp luật có thể áp dụng đó, lấy một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ đang xem xét. Kết quả của sự lựa chọn này tất yếu không phải mọi trường hợp sẽ là luật quốc gia của Việt Nam, mà sẽ có trường hợp là luật hình sự, hành chính của nước ngoài. Khi đó, luật hình sự, hành chính của nước ngoài sẽ được áp dụng để bảo vệ các quan hê đó, các quan hệ đặc biệt được xác định là sự ổn định của an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, mà khi đặt ra pháp luật để bảo vệ các quan hệ này, các quốc gia, không chỉ Việt Nam, luôn xác định là để bảo vệ những giá trị cốt lõi, nên tảng của chính mình. Nói một cách khác, nếu thừa nhận có xung đột pháp luật trong lĩnh vực luật công thì đồng nghĩa với việc có thể áp dụng pháp luật nước ngoài, và đay là điều hết sức vô lí cũng như không thực tiễn không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các nước. Vì vậy, các quốc gia đều từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài hay không đặt ra việc chọn luật để rồi có thể có nguy cơ áp dụng pháp luật nước ngoài. Các quan hệ này được bảo vệ một cách nghiêm ngặt và tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, một khi các quan hệ đó bị xâm phạm tức là các giá trị căn bản của cuộc sống, xã hội bị tác động tới, các lợi ích công bị xâm phạm thì bất kể người vi phạm là người nước nào, đang cư trú ở đâu đều sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật quốc gia nơi quan hệ (được quy định trong luật công) bị xâm phạm.

Thứ hai là trong lĩnh vực luật tư, hầu hết các quan hệ sẽ làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật. Tuy nhiên, do đặc thù nên một số quan hệ sẽ không phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật, điển hình là quan hệ về sở hữu trí tuệ.

Sở hữu trí tuệ với đặc điểm nổi bật là tính vô hình của tài sản nên tài sản trí tuệ phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào, yêu cầu bảo hộ ở đâu thì chỉ được bảo hộ và chỉ bảo hộ được trong phạm vi lãnh thổ nước đó mà thôi. Vì vậy, đối với các quan hệ này không có xung đột pháp luật (có nguyên nhân khách quan nhưng không có nguyên nhân chủ quan), không thể áp dụng luật nước ngoài để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho một đối tượng nào đó ở Việt Nam được. Song, đối với các quan hệ hợp đồng có đối tượng liên quan đến sở hữu trí tuệ như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ; hoặc các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra được xem là các quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại hay quan hệ dân sự bình thường và đều có xung đột pháp luật.

Từ đó có thể thấy, xung đột pháp luật sẽ nảy sinh trong hầu hết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, trừ một số trường hợp đặc biệt, điển hình là quan hệ về sở hữu trí tuệ.

Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít hay nhiều các quốc gia sẽ xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển. Ở đó, xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng đề điều chỉnh một quy phạm pháp luật nào đó. Do vậy, việc hiểu rõ nguyên nhân và phạm vi của xung đột pháp luật sẽ cho chúng ta một cái nhìn hoàn chỉnh hơn trong tư pháp quốc tế về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào các quan hệ pháp luật tư pháp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế – xã hội đất nước ngày càng phát triển.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2019, tr.50.

Các tin khác