Cá nhân được hiểu là con người cụ thể, được xác định từ khi sinh ra đến khi chết đi và chính là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội. Trong pháp luật dân sự, cụ thể là trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, cá nhân là chủ thể nguyên sinh, phổ biến và quan trọng nhất được điều chỉnh và các chủ thể khác khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì bản chất đều thông qua hành vi của cá nhân. Theo đó, cá nhân khi muốn tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng thì đều phải có tư cách chủ thể, hay chính là năng lực chủ thể của cá nhân.
I. Một số vấn đề lý luận về năng lực chủ thể của cá nhân
1. Khái niệm năng lực chủ thể của cá nhân
Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là “khả năng điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”[1]. Theo đó, có tác giả cho rằng: “Năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự là khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ thể, tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đó”.[2] Với ý nghĩa là chủ thể đầu tiên và quan trọng, cá nhân cũng cần phải có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.
Trong các công trình nghiên cứu khoa học, năng lực chủ thể của cá nhân được định nghĩa “là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và gánh vác các nghĩa vụ khi được pháp luật trao quyền hoặc phải gánh vác nghĩa vụ dân sự”[3] hay “là khả năng để cá nhân có thể tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể và tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia”.[4]
Năng lực chủ thể của cá nhân được cấu thành bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân có các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Theo đó, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, tiền đề, điều kiện cần thiết để cá nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Thời điểm cá nhân có năng lực hành vi dân sự là ngay từ khi sinh ra và chỉ chấm dứt khi cá nhân đó chết đi.
Thứ hai, năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực tư chịu trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.[5]
2. Đặc điểm năng lực chủ thể của cá nhân
Năng lực chủ thể của cá nhân được cấu thành bởi năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, do đó, đặc điểm năng lực chủ thể của cá nhân sẽ được thể hiện qua đặc điểm của hai yêu tố trên.
Thứ nhất, đặc điểm năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bao gồm:
(i) Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật và có nội dung phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hay vào hình thái kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định. Hay nói cách khác, nguồn gốc của năng lực pháp luật dân sự là từ quy định pháp luật nên sẽ mang bản chất giai cấp. Đồng thời, trong cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở những quốc gia khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự cũng khác nhau và trong cũng một quốc gia, cùng một hình thái kinh tế - xã hội vào những thời điểm lịch sử khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng được khác quy định khác nhau.
(ii) Năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân là bình đẳng. Theo đó, mọi cá nhân đều có khả năng hưởng quyền, chịu nghĩa vụ như nhau và năng lực pháp luật dân sự là tiền để để cá nhân được hưởng các quyền dân sự, chịu các nghĩa vụ dân sự cụ thể.
(iii) Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ bị hạn chế theo quy định pháp luật, hay nói cách khác, cá nhân không thể tự hạn chế năng lực pháp luật dân sự của chính mình hay của cá nhân khác. Việc pháp luật hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không làm mất đi hoàn toàn khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể mà chỉ là tạm thời “đình chỉ” khả năng này và cũng chỉ hạn chế đối với những quyền cụ thể mà không phải với năng lực pháp luật dân sự nói chung.
(iv) Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Cụ thể, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không tách rời sự tồn tại của cá nhân cũng như không phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ hay việc cá nhân đó có thể tự mình thực hiện quyền dân sự hay không. Đồng thời, chỉ khi cá nhân chết hoặc bị tuyên bố là đã chết thì khi đó năng lực pháp luật dân sự mới chấm dứt.
Thứ hai, đặc điểm năng lực hành vi dân sự của cá nhân bao gồm:
(i) Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được pháp luật thừa nhận. Pháp luật thừa nhận năng lực hành vi dân sự của cá nhân dựa trên khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cá nhân. Theo đó, pháp luật sẽ quy định những tiêu chí để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân như độ tuổi, sức khoẻ tâm thần… Thông thường, pháp luật các quốc gia, trong đó có Việt Nam sẽ lấy độ tuổi làm tiêu chí cơ bản để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân, bởi xét về mặt khoa học, khi cá nhân đạt đến độ tuổi nhất định thì sẽ được coi là đủ khả năng về nhận thức và làm chủ hành vi của mình.
(ii) Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là không giống nhau giữa các cá nhân. Cụ thể, năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào độ tuổi, khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của từng cá nhân, mà những yếu tố này lại khác nhau giữa các cá nhân, từ đó dẫn đến khả năng tham gia vào các giao dịch dân sự cụ thể của mỗi cá nhân là không đồng đều.
(iii) Năng lực hành vi dân sự của cá nhân không xuất hiện từ khi sinh ra và không mang tính liên tục. Khác với năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến độ tuổi nhất định và trong cả quá trình sống, năng lực hành vi dân sự của cá nhân có thể có sự thay đổi như bị mất hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không nghiễm nhiên liên tục.
II. Quy định pháp luật về năng lực chủ thể của cá nhân theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
1. Quy định pháp luật về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 BLDS năm 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng có các đặc điểm như “Mọi cá nhân đề có năng lực pháp luật như nhau”; “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”[6] và “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.[7]
Về nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, Điều 17 BLDS năm 2015 quy định bao gồm:
Thứ nhất là quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Trước hết, các quyền nhân thân không gắn với tài sản có thể kể đến như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; quyền đối với họ, tên, thay đổi họ, tên; quyền xác định dân sự; quyền kết hôn; quyền ly hôn… Các quyền này về cơ bản không gắn với chỉ thể hiện giá trị nhân thân của cá nhân với chính bản thân mình mà hoàn toàn không gắn với bất kỳ tài sản nào. Do đó, quyền nhân thân không gắn với tài sản là bình đẳng giữa các cá nhân và được ghi nhận suốt đời, không bị phụ thuộc hay bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, không xác định bằng tài sản cũng như không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Đối với các quyền nhân thân gắn với tài sản, đây là các quyền được xác lập khi có những sự kiện pháp lý nhất định gắn với sự hình thành ra giá trị tài sản và hoàn toàn có thể chuyển giao cho chủ thể khác.
Thứ hai là quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản. Thực tế đã cho thấy đây là nhóm quyền cơ bản và vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Về quyền sở hữu, tại khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nàh ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Mọi cá nhân đều không bị hạn chế về số lượng hay giá trị sở hữu tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định về tài sản cá nhân không có quyền sở hữu hay không thuộc quyền sở hữu tư nhân. Về quyền thừa kế, cá nhân có thể để lại di sản của mình cho những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, đồng thời có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản thừa kế từ chủ thể khác. Ngoài ra, cá nhân còn có quyền khác đối với tài sản - quyền của một chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân như quyền bề mặt, quyền hưởng dụng hay quyền đối với bất động sản liền kề.
Thứ ba là quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Trong đời sống thực tế, để thoả mãn nhu cầu về vật chất hoặc/và tinh thần, các cá nhân sẽ tham gia vào các quan hệ dân sự. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự, cá nhân sẽ phải đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định cũng như phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ chính quan hệ dân sự mà cá nhân tham gia.
2. Quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
Theo quy định tại Điều 19 BLDS năm 2015: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Từ đó, căn cứ vào khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và hậu quả của hành vi, mà cụ thể là căn cứ vào độ tuổi hoặc kết quả giám định pháp y tâm thần, pháp luật phân biệt năng lực hành vi dân sự của cá nhân thành các mức độ khác nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo quy định tại Điều 20 BLDS năm 2015, người thành niên - cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên là chủ thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo đó, họ được suy đoán là có đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, trừ trường hợp có quyết định của Toà án về việc bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22, Điều 23 và Điều 24 BLDS năm 2015. Khi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia xác lập và thực hiện mọi giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể độc lập cũng như tự chịu trách nhiệm phát sinh từ mọi hành vi của chính họ.
Thứ hai là năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Trường hợp này được hiểu là cá nhân có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng khả năng này không đầy đủ mà chỉ ở một mức độ nhất định, bao gồm:
(i) Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi là người có năng lực hành vi dân sự một phần. Theo quy định tại khoản 3 Điều 21 BLDS năm 2015, người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Giao dịch “phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi” có hiểu là những giao dịch có đặc điểm sau: Một là giá trị của giao dịch nhỏ; Hai là giao dịch được thực hiện tức thời, trao tay, chủ yếu là hợp đồng mua bán, trao đổi; Ba là mục đích của giao dịch là phục vụ như cầu học tập, sinh hoạt vui chơi phù hợp với điều kiện sinh hoạt ở địa phương nơi cá nhân đó sinh sống mà người đại diện của họ cho phép họ được thực hiện mà không cần có sự đồng ý trực tiếp của người đại diện.[8]
Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật được thể hiện tại thời điểm xác lập giao dịch hoặc sau khi giao dịch đã được hoàn thành.
(ii) Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Theo khoản 1 Điều 24 BLDS năm 2015, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và bị Toà án tuyên là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Mục đích của việc hạn chế năng lực hành vi dân sự đối với các chủ thể trên là để kiểm soát các giao dịch mà họ tham gia, đảm bảo việc sử dụng hợp lý tài sản của người đó cũng như góp phần bảo vệ giá trị tài sản của gia đình, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
(iii) Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Theo quy định tại Điều 23 BLDS năm 2015, một cá nhân có thể bị Toà án tuyên là có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi khi có các điều kiện gồm: Là người thành niên; Yếu tố thể chất hoặc tinh thầnh khiến cho cá nhân đó không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự; Có yêu cầu của chính cá nhân này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan; Có kết luận giám định pháp y tâm thần.
Thứ ba là không có năng lực hành vi dân sự. Đây là trường hợp một cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự và khi đó họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cũng như không thể hiện được ý chí khi tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Chỉ khi có quyết định của Toà án tuyên bố thì một người mới bị coi là mất năng lực hành vi dân sự và Toà án chỉ có thể ra quyết định khi thoả mãn những điều kiện nhất định theo Điều 22 BLDS năm 2015.
Thứ nhất, việc xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân phát sinh kể từ khi cá nhân sinh ra còn tồn tại những vướng mắc nhất định. Cụ thể, quyền được hưởng thừa kế, quyền được hưởng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và chỉ xuất hiện sau khi cá nhân được sinh ra. Tuy nhiên, trong trường hợp người con đã thành thai ở thời điểm người để lại thừa kế, người bị xâm phạm tính mạng chết, sau đó được sinh ra và còn sống thì vấn được hưởng thừa kế, được hưởng tiền cấp dưỡng như những người đang sống vào thời điểm mở thừa kế. Việc quy định như trên chưa có nền tảng cơ sở lý luận phù hợp để áp dụng bởi không thể coi thai nhi là chủ thể đã có năng lực pháp luật dân sự mà pháp luật hiện nay lại không đưa ra ngoại lệ khi quy định về thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự của cá nhân.
Thứ hai, việc xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chấm dứt khi cá nhân đó chết còn tồn tại vướng mắc. Cụ thể, trong trường hợp cá nhân bị tuyên bố là đã chết thì năng lực pháp luật dân sự của họ sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, việc tuyên bố một cá nhân là đã chết hoàn toàn chỉ dựa trên suy đoán về mặt pháp lý nên có thể xảy ra trường hợp sự suy đoán này là không chính xác và cá nhân đó lại quay trở về. Khi đó, năng lực pháp luật dân sự của họ lại được tiếp tục. Trên thực tế, trong khoảng thời gian kể từ khi quyết định tuyên bố cá nhân chết có hiệu lực đến thời điểm quyết định đo bị huỷ bỏ, cá nhân đang sống, vẫn xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự. Song về mặt pháp lý, trong khoảng thời gian này, họ không có quyền và nghĩa vụ dân sự bởi họ không còn năng lực pháp luật dân sự. Vậy năng lực pháp luật dân sự của cá nhân trong khoảng thời gian này được xác định như thế nào và các quan hệ dân sự mà họ đã tham gia được giải quyết ra sao vẫn chưa có quy định cụ thể.[9]
Thứ ba, quy định về thời điểm bắt đầu mất năng lực hành vi dân sự còn chưa rõ ràng. Theo quy định tại Điều 22 BLDS năm 2015, một cá nhân chỉ được xác định là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của Toà án. Tuy nhiên, pháp luật lại không có quy định cụ thể cá nhân được tính là mất năng lực hành vi dân sự kể từ thời điểm nào, thời điểm Toà án ra quyết định tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự hay thời điểm cá nhân bắt đầu mắc bệnh tâm thần. Sở dĩ đặt ra câu hỏi này là do hiện nay trên thực tế có rất nhiều cá nhân mắc các bệnh tâm thần và không thể nhận thức làm chủ hành vi bị các thành phần xấu trong xã hội lợi dụng. Mặt khác, người thân của những người mắc các bệnh tâm thần thông thường rất lơ là trong việc yêu cầu toà án tuyên bố người thân của mình mất năng lực hành vi dân sự và chỉ tiến hành thủ tục yêu cầu Toà án tuyên bố khi những người mắc bệnh tâm thần đó bị lừa đảo.[10]
Thứ nhất, kiến nghị bổ sung quy định pháp luật về thời điểm phát sinh năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Theo đó, để đảm bảo bao quát được trường hợp ngoại lệ liên quan đến người con đã thành thai ở thời điểm người để lại thừa kế, người bị xâm phạm tính mạng chết, sau đó được sinh ra và còn sống thì vấn được hưởng thừa kế, được hưởng tiền cấp dưỡng như những người đang sống vào thời điểm mở thừa kế, thì cần bổ sung khoản 3 Điều 16 BLDS năm 2015 cụ thể như sau: “Năng lực pháp luạt dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 593 và Điều 613 của Bộ luật này”.
Thứ hai, bổ sung quy định pháp luật về việc xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân trong khoảng thời gian kể từ khi quyết định tuyên bố cá nhân chết có hiệu lực đến thời điểm quyết định đó bị huỷ bỏ do cá nhân vẫn đang sống, vẫn xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự. Theo quan điểm cá nhân của tác giả, các giao dịch dân sự phát sinh trong thời điểm trên cần được Toà án công nhận để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác đã xác lập, thực hiện giao dịch với người bị Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố chết.
Thứ ba, cần bổ sung quy định cụ thể về thời điểm bắt đầu tính một cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự. Việc quy định trong trường hợp này phải vừa đảm bảo quyền lợi cho người bị mất năng lực hành vi dân sự nhưng cũng không để xảy ra việc gian lận, lừa đảo trong giao dịch dân sự.
Như vậy, năng lực chủ thể của cá nhân là yếu tố cơ bản để xem xét cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập hay không. Việc xác định năng lực chủ thể của cá nhân sẽ được thực hiện thông qua việc xem xét, đánh giá năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Pháp luật Việt Nam hiện nay đã có những quy định chi tiết về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế nhất định liên quan đến nội dung trên cần được hoàn thiện, khắc phục để đảm bảo tính phù hợp của quy định pháp luật khi áp dụng trên thực tế, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân trong xã hội.
Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M
[1] Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 660.
[2] Phạm Thanh Tùng (2023), Năng lực chủ thể của cá nhân theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 9.
[3] Nguyễn Thị Thanh Hảo (2013), Năng lưc chủ thể của cá nhân trong giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 16.
[4] Phạm Văn Tuyết (2017), Hướng dẫn môn học Luật Dân sự (Tập 1), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 69.
[5] Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 89.
[6] Khoản 2, khoản 3 Điều 16 BLDS năm 2015.
[7] Điều 18 BLDS năm 2015.
[8] Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 114.
[9] Vương Thanh Thuý (2015), “Hoàn thiện quy định về năng lực chủ thể của cá nhân trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Luật học, (số đặc biệt), tr. 23.
[10] Phạm Thanh Tùng (2023), Năng lực chủ thể của cá nhân theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 85.