Trái quyền hay quyền đối nhân là khái niệm đã tồn tại cách đây hơn 2000 năm từ pháp luật La Mã. Trong quan hệ trái quyền, bên có quyền sẽ chỉ thoả mãn được lợi ích mình mong muốn thông qua việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Bởi vậy, bên có quyền luôn “rơi” vào thế bị động vì nghĩa vụ có được thực hiện và có thực hiện đúng với sự thoả thuận hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào bên có nghĩa vụ. Do đó, để khắc phục được tình trạng trên, các bên hoàn toàn có thể thoả thuận về việc áp dụng các biện pháp bảm đảm thực hiện trái quyền. Một trong số những biện pháp bảo đảm thực hiện trái quyền quan trọng và phổ biến trong thực tiễn đời sống chính là biện pháp đặt cọc.
Từ xa xưa, khi việc dùng tiền xu trong các hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hoá còn phổ biến, các chủ thể thường xâu chuỗi những đồng tiền xu lại với nhau thành từng cọc và gọi là “cọc tiền xu”. Khi thực hiện giao dịch, bên mua thường sẽ đặt trước những cọc tiền xu cho bên bán tuỳ thuộc vào giá trị của giao dịch, nhằm mục đích tạo niềm tin đối với bên bán về việc bên mua sẽ thực hiện đúng những nội dung mà các bên đã thoả thuận. Từ đó mà thuật ngữ “đặt cọc” dần xuất hiện và được sử dụng phổ biến như một biện pháp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Chẳng hạn như các bên có thoả thuận về việc mua bán nhà ở nhưng chưa tiến hành ngay việc xác lập hợp đồng, khi đó bên mua có thể “đặt” trước cho bên bán một khoản tiền để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng trong tương lai.
Về mặt ngôn ngữ, “đặt” được hiểu là “để vào chỗ nào”[1] hay “để vào vị trí thích hợp cho một việc nào đó”[2], còn “cọc” được hiểu là “tập hợp gồm nhiều đồng tiền xếp thành hình trụ”[3]. Từ đó, “đặt cọc” được hiểu theo nghĩa chung nhất là đặt một khoản tiền vào một việc gì đó.[4]
Đến nay, trong cuộc sống hiện đại, trước sự phát triển của giao lưu dân sự đã dẫn đến không chỉ những cọc tiền xu được sử dụng để tạo niềm tin trong giao kết, thoả thuận giao dịch, mà còn có thể là các hình thức tiền tệ khác hoặc các loại tài sản khác.
Khi bàn về biện pháp đặt cọc, tác giả Nguyễn Ngọc Điện cũng đã cho rằng “một cách tổng quát, có thể nói rằng đặt cọc là hình thức thoả thuận về giá của quyền rút lại một lời cam kết đã đưa ra: số tiền đặt cọc hoặc số tiền mà người nhận đặt cọc phải trả lại cho người đặt cọc là lợi ích vật chất mà các bên đánh đổi để được phép thực hiện quyền này. Trong chừng mực nào đó, đặt cọc là biện pháp kéo dài khoảng thời gian mà trong khoảng thời gian đó, các bên liên quan được phép tiếp tục suy nghĩ về lợi hại của việc thực hiện một dự định (chứ không phải một hợp đồng đã được giao kết), trước khi quyết định thực hiện cho đến cùng hay chuộc lại những cam kết sai lầm của mình. Cũng có thể nói rằng đặt cọc là sự thoả thuận về điều kiện huỷ hợp đồng kèm theo phạt vi phạm; quan niệm này chấp nhận được với điều kiện hợp đồng đã được các bên chính thức giao kết”.[5]
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về đặt cọc như sau: “Đặt cọc là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một bên giao cho bên kia một tài sản (tiền, vật) trong một thời hạn nhất định nhằm đảm bảo việc giao kết, thực hiện một hợp đồng mà các bên đang hướng tới hoặc đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng đã được giao kết giữa các bên”.[6]
Xét về bản chất, có thể thấy đặt cọc chính là biện pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bởi về mặt khách quan, “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được hiểu là các biện pháp do pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó nhằm tạo ra cơ sở pháp lý để các chủ thể sử dụng khi xác lập và thực hiện nghĩa vụ dân sự nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ chính được thực hiện”.[7] Theo đó, đặt cọc là một trong những biện pháp được pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam quy định nhằm mục đích đảm bảo cho một nghĩa vụ chính giữa các bên được thực hiện. Hay nói cách khác, trước khi các bên thoả thuận về việc đặt cọc thì trước đó đã luôn tồn tại một quan hệ nghĩa vụ và việc đặt cọc là nhằm đảm bảo cho quan hệ nghĩa vụ đó được thực hiện.
Về mặt chủ quan, “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là sự thoả thuận giữa các bên hoặc hành vi đơn phương của một bên về việc lựa chọn sử dụng những biện pháp đã được pháp luật quy định để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ với tính chất tác động, dự phòng; đồng thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra”.[8] Thực tế từ thời xa xưa đã cho thấy, các bên trong giao lưu dân sự khi xác lập biện pháp đặt cọc hoàn toàn là để “dự phòng” cho việc một trong các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thoả thuận ban đầu. Bởi nếu một trong các bên vi phạm nghĩa vụ, họ sẽ bị mất chính tài sản đã đem ra để đặt cọc hoặc mất một tài sản khác có giá trị tương ứng với tài sản được dùng để đặt cọc, tuỳ thuộc vào việc bên nào là bên vi phạm nghĩa vụ. Điều này sẽ giúp ngăn ngừa hành vi vi phạm nghĩa vụ bởi không bên nào muốn mất đi tài sản của mình, đồng thời nếu có vi phạm nghĩa vụ thì tài sản đó sẽ được dùng để khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm nghĩa vụ gây ra.
Có thể thấy, đặt cọc mang bản chất của một biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, do đó, đặt cọc cũng sẽ có đầy đủ đặc điểm chung của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: (i) Nhằm nâng cao trách nhiệm của các bên đối với cam kết, nghĩa vụ của mình; (ii) Mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính; (iii) Đối tượng là những lợi ích vật chất; (iv) Phạm vi bảo đảm được xác định theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật nhưng không cao hơn nghĩa vụ được bảo đảm; (v) Được xác lập từ thoả thuận của các bên hoặc hành vi đơn phương của một bên.
Ngoài những đặc điểm của chung của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đặt cọc còn có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, về thời điểm xác lập. Nếu các biện pháp bảo đảm khác chỉ được xác lập cùng thời điểm hoặc sau khi đã xác lập một giao dịch được bảo đảm, thì đặt cọc lại có thể được xác lập khi chưa có bất kỳ một giao dịch nào được xác lập giữa các bên. Theo đó, các bên mới chỉ hứa hẹn về việc sẽ xác lập giao dịch với nhau và để đảm bảo cho việc hứa hẹn đó được thực hiện trong tương lai, các bên sẽ xác lập việc đặt cọc trước.
Thứ hai, về đối tượng bảo đảm. Đối tượng bảo đảm của đặt cọc chỉ có thể là tiền hoặc vật. Trong đó, nếu đối tượng đặt cọc là tiền thì khoản tiền đó luôn đồng thời mang hai chức năng là đảm bảo và thanh toán.[9] Cụ thể, khoản tiền đặt cọc sẽ thực hiện chức năng bảo đảm giao kết hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng khi mục đích của viêc đặt cọc chưa được thực hiện. Còn khoản tiền đặt cọc sẽ có thêm chức năng thanh toán nếu mục đích của việc đặt cọc đã được thực hiện và bên đặt cọc là bên có nghĩa vụ thanh toán.
Thứ ba, về mục đích. Các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì đều có mục đích chung là để đảm bảo nghĩa vụ được thực hiện trên thực tế. Mục đích này trong biện pháp đặt cọc đã được cụ thể hoá thành hai mục đích gồm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giao kết giao dịch và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch đã giao kết. Tuỳ từng trường hợp mà đặt cọc có thể được xác lập nhằm một trong hai mục đích hoặc cả hai mục đích trên.
Thứ tư, về chủ thể. Nếu trong các biện pháp bảo đảm khác thì bên bảo đảm bao giờ cũng được xác định theo nguyên tắc là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm (trừ trường hợp người thứ ba bảo đảm nghĩa vụ) thì nguyên tắc này lại không thể áp dụng để xác định bên đặt cọc (bên bảo đảm) bởi ba lý do: (i) quan hệ đặt cọc có thể được xác lập trước khi quan hệ nghĩa vụ giữa hai bên được hình thành (trong trường hợp này chưa thể xác định được bên nào là bên có nghĩa vụ); (ii) nếu đặt cọc với mục đích là bảo đảm giao kết thì bên nào cũng phải thực hiện việc giao kết hợp đồng; (iii) nếu đặt cọc với mục đích bảo đảm thực hiện hợp đồng thì bên nào cũng phải thực hiện hợp đồng đó.[10]
Thứ năm, về tính bảo đảm. Nếu như các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác chỉ bảo đảm cho một bên trong quan hệ nghĩa vụ, thì biện pháp đặt cọc sẽ đảm bảo cho cả hai bên trong quan hệ nghĩa vụ. Bất kỳ bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ các bên đã thoả thuận thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý của biện pháp đặt cọc. Do đó, biện pháp đặt cọc thể hiện tính bảo đảm hai chiều trong khi các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ khác chỉ có tính bảo đảm theo một chiều duy nhất.
Từ quá trình hình thành và phát tiển của biện pháp đặt cọc trong giao lưu dân sự cũng như thực tiễn quy định pháp luật về biện pháp này, có thể thấy đối tượng của đặt cọc thường bao gồm hai loại tài sản cơ bản như sau:
Thứ nhất là tiền. Theo kinh tế chính trị học, tiền là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị cho các loại tài sản khác. Mỗi nhà nước, mỗi quốc gia có thể phát hành những đồng tiền riêng và việc phát hành này được coi là một trong những biểu hiện của chủ quyền mỗi quốc gia. Chẳng hạn như ở Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiền được phát hành bởi một cơ quan duy nhất là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đơn vị tiền tệ của nước ta là “Việt Nam đồng”. Nếu vật được xác định thông qua các đơn vị đo lường thông thường thì tiền lại được xác định dựa trên những mệnh giá khác nhau tuỳ thuộc vào chính sách ban hành tiền tệ của mỗi quốc gia. Ngoài ra, một điểm khác biệt nữa giữa “vật” so với “tiền” là nếu ta có thể khai thác công dụng hữu ích trực tiếp từ chính một vật thì đối với tiền, chúng ta hoàn toàn không thể khai thác công dụng trực tiếp từ chính tờ tiền hay đồng tiền đó. Bởi tiền được ban hành để thực hiện ba chức năng chính là công cụ thanh toán đa năng, công cụ định giá các loại tài sản khác và công cụ tích luỹ tài sản.
Thứ hai là vật. Các đối tượng tồn tại hiện hữu dưới vật chất và con người có thể cảm nhận được bằng vật chất thì chính là vật. Tuy vật là vật chất nhưng không phải vật chất nào cũng là vật, bởi vật chất chỉ được coi là vật khi nằm trong khả năng chiếm giữ, kiểm soát của con người. Nhìn từ góc độ vật lý, mỗi vật đều có giới hạn, được thể hiện qua kích thước, hình dáng, màu sắc cũng như chiếm giữ một phần trong không gian thực tế. Trong cuộc sống của con người, vật tồn tại phổ biến xung quanh chúng ta và nắm giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Khi vật mang lại cho con người những giá trị nhất định thì sẽ được coi là tài sản. Tuy nhiên, việc một vật có giá trị hay không còn tuỳ thuộc vào vai trò của vật đó đối với mỗi chủ thể nên có thể đối với một người, vật này là tài sản nhưng có thể đối với người khác, đó lại không phải tài sản. Do đó, khi sử dụng vật để đặt cọc thì vật đó phải mang tính giá trị chung, được phần lớn chủ thể trong xã hội coi đó là tài sản thì khi đó mới đảm bảo được mục đích của biện pháp đặt cọc. Hay nói cách khác, vật là tài sản dùng để đặt cọc phải là có giá trị và được pháp chuyển giao trong giao dịch dân sự.
Từ khái niệm của đặt cọc là việc một bên “giao” cho bên kia một tài sản nhất định nên có thể hiểu vật được dùng cho việc đặt cọc là vật mang đầy đủ thuộc tính của tài sản là động sản, đồng thời phải là vật đã hình thành và thuộc sở hữu của bên đặt cọc vào thời điểm giao dịch đặt cọc được xác lập.[11] Tuy nhiên, cách hiểu này có thể đã làm hạn chế các đối tượng có thể sử dụng để thực hiện đặt cọc trên thực tế, chẳng hạn như quyền tài sản (quyền đòi nợ, quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp…). Mặc dù quyền tài sản là tài sản tồn tại dưới dạng quyền nên mang tính vô hình và không thể chuyển giao một cách trực tiếp như vật hay tiền, nhưng các bên hoàn toàn có thể đặt cọc loại tài sản này để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là trong trường hợp chủ thể không có tài sản khác để đặt cọc cho một giao dịch có giá trị lớn.
Đối tượng của đặt cọc là tài sản có hai chức năng cơ bản, bao gồm chức năng bảo đảm và chức năng thanh toán. Cụ thể, đối với chức năng bảo đảm, đối tượng của đặt cọc hiện diện với ý nghĩa dự phòng cho hậu quả pháp lý khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Ngoài ra, chức năng bảo đảm của đặt cọc còn là khấu trừ nghĩa vụ, trong trường hợp này không phải là khấu trừ một phần nghĩa vụ mà nó mang ý nghĩa khấu trừ trọn vẹn nghĩa vụ.[12] Bên cạnh đó, đối với chức năng thanh toán, tài sản đặt cọc có thể trở thành phương tiện thanh toán nếu hợp đồng được giao kết, thực hiện và các bên có thoả thuận khấu trừ tài sản đặt cọc vào nghĩa vụ thanh toán. Trường hợp một trong các bên vi phạm nghĩa vụ, tài sản đặt cọc có thể đánh giá là “thước đo” mức phạt mà chủ thể vi phạm phải thực hiện.[13]
4. Các bên chủ thể trong đặt cọc
Xuất phát từ khái niệm của đặt cọc là một bên giao tài sản cho bên kia để đảm bảo việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng, quan hệ đặt cọc sẽ bao gồm hai bên chủ thể như sau:
Thứ nhất là bên đặt cọc. Bên đặt cọc là bên giao cho bên kia tài sản như tiền hay vật có giá trị khác với mục đích nhằm đảm bảo cho việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Hay nói cách khác, bên đặt cọc là bên muốn tạo sự tin tưởng đối với bên còn lại về việc mình sẽ thực hiện nghĩa vụ mà các bên đã hứa hẹn hoặc đã thoả thuận bằng cách giao cho bên còn lại tài sản của mình. Khi chuyển giao tài sản cho bên nhận đặt cọc, bên đặt cọc hoàn toàn chưa mất đi quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với tài sản đó. Tức là việc giao tài sản của bên nhận đặt cọc không đồng thời chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp của họ đối với tài sản đó. Việc mất đi quyền sở hữu đối với tài sản đặt cọc chỉ xảy ra khi bên nhận đặt cọc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà các bên thoả thuận đảm bảo bằng biện pháp đặt cọc. Ngoài ra, trong trường hợp tài sản của bên đặt cọc là một vật mà nếu việc sử dụng tài sản đó có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị thì nên đặt cọc còn có quyền yêu cầu bên nhận đặt cọc ngừng việc sử dụng tài sản đặt cọc.
Thứ hai là bên nhận đặt cọc. Bên nhận đặt cọc được hiểu là bên nhận tài sản do bên đặt cọc giao nhằm đảm bảo cho việc giao kết hoặc thực hiện nghĩa vụ. Sau khi nhận tài sản đặt cọc, bên nhận đặt cọc có nghĩa vụ phải giữ gìn, bảo quản tài sản đặt cọc, đồng thời không được khai thác, sử dụng tài sản đó cũng như không được xác lập giao dịch đối với tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có sự đồng ý của bên đặt cọc.
Khi bên đặt cọc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ liên quan đến việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng mà hai bên đã hứa hẹn, thoả thuận thì bên nhận đặt cọc hoàn toàn có quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Ngoài ra, chủ thể trong quan hệ đặt cọc cũng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự, cũng như hoàn toàn tự nguyện bằng ý chí của mình xác lập, thoả thuận về biện pháp đặt cọc. Khi đó, biện pháp đặt cọc mới có giá trị pháp lý để ràng buộc nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ.
Xét về mặt bản chất, quan hệ đặt cọc được hình thành để nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó, nếu bên nào không đảm bảo thực hiện đúng mục đích của việc đặt cọc thì sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ đặt cọc. Từ đó cho thấy việc xác định mục đích của việc đặt cọc là rất quan trọng để từ đó xác định nghĩa vụ của các bên.
Mục đích của việc đặt cọc sẽ được xác định tuỳ thuộc vào thoả thuận của chính các bên và căn cứ vào thời điểm đặt cọc với thời điểm giao kết hợp đồng được đảm bảo bằng biện pháp đặt cọc. Đối với trường hợp trong văn bản xác lập việc đặt cọc, các bên xác định rõ mục đích của việc đặt cọc thì sẽ thực hiện theo thoả thuận của các bên. Theo đó, các bên có thể thoả thuận đặt cọc được xác lập để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng hoặc để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng sau khi giao kết hoặc cho cả hai mục đích nêu trên. Đối với trường hợp các bên hoàn toàn không có thoả thuận xác định rõ mục đích của việc đặt cọc thì mục đích sẽ được xác định dựa vào thời điểm các bên xác lập việc đặt cọc. Nếu việc đặt cọc được xác lập trước khi các bên giao kết hợp đồng thì mục đích của việc đặt cọc là để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng. Còn nếu việc đặt cọc được xác lập sau khi các bên đã giao kết hợp đồng thì việc đặt cọc chỉ có thể được hình thành với mục đích để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng đã giao kết.
Tùy thuộc vào mục đích của việc đặt cọc là gì mà xác định hậu quả pháp lý của việc đặt cọc tương ứng. Cụ thể, nếu việc đặt cọc được các bên thoả thuận chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng thì bên nào không thực hiện việc giao kết hợp đồng như đã hứa hẹn sẽ là bên phải gánh chịu hậu quả của việc đặt cọc. Trong trường hợp các bên đã giao kết hợp đồng theo đúng thoả thuận mà sau đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đã giao kết thì cũng không phải chịu hậu quả pháp lý của việc đặt cọc, mà chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Còn nếu việc đặt cọc được các bên thoả thuận xác lập nhằm mục đích đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc nhằm mục đích vừa đảm bảo giao kết hợp đồng, vừa đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì mặc dù hợp đồng đã giao kết, bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vẫn sẽ phải chịu hậu quả pháp lý của biện pháp đặt cọc.
Bởi đặt cọc là một trong những biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, do đó, đặt cọc sẽ mang ý nghĩa chung của các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, biện pháp đặt cọc sẽ góp phần nâng cao ý thức của của các chủ thể trong việc thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình khi giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Bởi đối tượng của biện pháp đặt cọc là tiền hoặc vật có giá trị, tác động, ảnh hưởng đến kinh tế của các bên chủ thể trong quan hệ đặt cọc cũng như quan hệ hợp đồng được đảm bảo bằng biện pháp đặt cọc. Do đó, khi đã sử dụng tài sản của mình để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa thì các bên sẽ tự ý thức hơn về việc thực hiện nghĩa vụ để tiếp tục giữ được quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản đó, tránh nguy cơ bị xử lý tài sản bảo đảm cũng như chịu những hậu quả pháp lý bất lợi khác khi không giao kết hay không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng đã giao kết.
Thứ hai, biện pháp đặt cọc sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể trong xã hội được tham gia vào việc xác lập giao dịch dân sự. Bởi trong nhiều trường hợp, các chủ thể chưa có điều kiện để thực hiện ngay việc giao kết hợp đồng thì việc đặt cọc sẽ như là một “sự giữ chỗ trước” để đợi đến thời điểm chủ thể mong muốn được giao kết hợp đồng có đủ điều kiện cần thiết để giao kết và thực hiện hợp đồng đó. Khi đó, bên nhận đặt cọc cũng sẽ có sự yên tâm hơn khi thực hiện giao kết hợp đồng hoặc tin tưởng hơn vào khả năng, ý thức thực hiện nghĩa vụ của bên đặt cọc.
Thứ ba, biện pháp đặt cọc giúp các giao lưu dân sự sôi động, phong phú hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nói chung. Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường là một tác động tích cực đối với các giao dịch dân sự.[14] Khi áp dụng biện pháp đặt cọc, chủ thể có đủ lòng tin quyền lợi của họ sẽ được đảm bảo, do vậy họ có thể mạnh dạn tham gia các quan hệ dân sự, chủ động tìm kiếm đối tác, từ đó tạo điều kiện phát triển và thúc đẩy mạnh mẽ giao lưu dân sự trong đời sống xã hội.
Thứ tư, biện pháp đặt cọc là công cụ pháp lý hiệu quả để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Theo đó, nếu bên đặt cọc không thực hiện đúng nghĩa vụ được đảm bảo bằng biện pháp đặt cọc thì sẽ mất quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản đặt cọc. Ngược lại, trong trường hợp bên nhận cọc không thực hiện đúng nghĩa vụ thì cũng sẽ phải chịu phạt một khoản tiền ít nhất là tương đương với giá trị của tài sản đặt cọc. Như vậy, ngoài nhằm mục đích là khấu trừ cho phần nghĩa vụ bị vi phạm thì biện pháp đặt cọc còn mang tính chất dự phạt đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Từ đó đảm bảo, cân bằng quyền lợi của cả hai bên trong quan hệ nghĩa vụ.
Có thể thấy, khác với trách nhiệm dân sự, các biện pháp bảo đảm là loại trách nhiệm đặc biệt trong đó các bên có thể thoả thuận phạm vi trách nhiệm, mức độ chịu trách nhiệm và cả cách thức, biện pháp áp dụng trách nhiệm.[15] Trong đó, đặt cọc là một biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phổ biến trong giao lưu dân sự giữa các chủ thể. Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về biện pháp đặt cọc sẽ là nền tảng cơ sở quan trọng để từ đó xây dựng các quy định pháp luật hợp lý về biện pháp này, tạo điều kiện cho các chủ thể áp dụng trong thực tiễn đời sống.
Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M
[1] Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Thanh Hoá, tr. 368.
[2] Trung tâm Từ điển học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 296.
[3] Trung tâm Từ điển học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 197.
[4] Phạm Văn Tuyết (Chủ biên) (2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb. Dân trí, Hà Nội, tr. 129.
[5] Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩa về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 6.
[6] Phạm Văn Tuyết (Chủ biên) (2015), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb. Dân trí, Hà Nội, tr. 131.
[7] Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 81.
[8] Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 81.
[9] Phạm Văn Tuyết (2015) (Chủ biên), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb. Dân trí, Hà Nội, tr. 134.
[10] Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Đề tài nghiên cứu Khoa học cấp trường, Hà Nội, tr. 86.
[11] Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Hoàn thiện chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Đề tài nghiên cứu Khoa học cấp trường, Hà Nội, tr. 348.
[12] Trịnh Thị Minh Trang (2005), Đặt cọc, ký được để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 44.
[13] Hồ Thị Bảo Ngọc (2022), “Công chứng hợp đồng đặt cọc”, Nghề luật, (11), tr. 32.
[14] Dương Thị Hiện (2016), Đặt cọc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 25.
[15] Phạm Công Lạc (1996), “Bản chất các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Luật học, (Số chuyên đề về BLDS), tr. 34.