0240.73088281
Logo

Bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015

Nếu như trong các Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 và 2005, bảo lưu quyền sở hữu (BLQSH) chỉ là một trong các quyền luật định, cho phép bên bán tài sản có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình trước sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần thì đến BLDS 2015, lần đầu tiên, BLQSH được ghi nhận là một trong các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ được pháp luật công nhận với những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn. Điều này là cơ sở quan trọng cho các bên trong hợp đồng mua bán tài sản, nhất là bên bán có căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời, là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế. Các quy định liên quan đến BLQSH trong BLDS 2015 hiện vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều và bất cập xung quanh vấn đề này.

I. Một số vấn đề lý luận về bảo lưu quyền sở hữu:

1. Khái niệm “bảo lưu quyền sở hữu”

BLQSH lần đầu tiên được quy định như một biện pháp bảo đảm tại khoản 6 Điều 292 BLDS 2015 và được quy định cụ thể tại tiểu mục 5 BLDS 2015 (từ Điều 331 đến Điều 334). Theo đó, “Bảo lưu quyền sở hữu” là việc bên bán tài sản thực hiện quyền kiểm soát và ngăn chặn việc định đoạt tài sản của bên mua đối với tài sản trong thời gian bên mua chưa trả đủ tiền mua tài sản cho bên bán.[1]

        BLQSH tài sản có thể xuất hiện như một quyền luật định của bên bán nhưng chỉ trong trường hợp mua bán tài sản mà bên mua trả chậm, trả dần tiền mua tài sản. Khoản 1 Điều 453 BLDS 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ví dụ: Chị H mua một chiếc xe máy giá 45 triệu đồng tại cửa hàng A, tuy nhiên chị H không trả một lần mà trả tiền cho cửa hàng A dưới hình thức trả góp. Lúc này việc mua xe của chị H là hình thức BLQSH.

        Mặt khác, BLQSH có thể hình thành theo thỏa thuận của các bên như một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Vì thế, nó có thể được sử dụng để bảo đảm quyền của bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản bất kỳ. Khoản 1 Điều 331 BLDS 2015 quy định: “Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ”. Trường hợp này, thỏa thuận về BLQSH phải được lập thành văn bản và chỉ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.[2]

2. Đặc điểm của bảo lưu quyền sở hữu

- Bảo lưu quyền sở hữu mang những đặc điểm chung của một biện pháp bảo đảm: Đây là một giao dịch phụ (hợp đồng phụ) không tồn tại độc lập, mà luôn được xác lập đi kèm một hợp đồng chính (hợp đồng mua bán); Mục đích của biện pháp này là nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên mua tài sản, cũng chính là bảo vệ quyền, lợi ích của bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản.

- Ngoài những đặc điểm chung như trên, biện pháp BLQSH còn mang những đặc điểm riêng sau: Chủ thể luôn được xác định theo chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản; Là biện pháp bảo đảm kèm theo hợp đồng mua bán tài sản; Chỉ bảo đảm quyền của bên bán tài sản.

3. Giá trị pháp lý của bảo lưu quyền sở hữu

BLDS 2015 chính thức ghi nhận BLQSH là một trong chín biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ [3] và đây cũng là điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Với ý nghĩa là một biện pháp bảo đảm, BLQSH được quy định từ Điều 331 - 334 BLDS 2015. Khoản 1 Điều 334 quy định: “Quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ”. Như vậy, BLQSH thiết lập mối quan hệ giữa bên bảo đảm - bên mua và bên nhận bảo đảm - bên bán. Nghĩa vụ được bảo đảm ở đây là nghĩa vụ thanh toán một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản mua bán. Tài sản được đưa ra để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chính là quyền sở hữu tài sản - đối tượng của hợp đồng mua bán. Đây là điểm đặc biệt giúp phân biệt BLQSH với các biện pháp bảo đảm khác, vì thông thường tài sản đem ra bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ [4], nhưng với BLQSH, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về bên có quyền, tức bên bán.

4. Ý nghĩa của BLQSH

Việc quy định vấn đề bảo lưu quyền sở hữu nhằm giúp cho bên mua khi nhận được tài sản họ phải sử dụng tài sản một cách có hiệu quả, có ý thức bảo vệ tài sản và có trách nhiệm thanh toán tiền cho bên bán khi đến hạn. Còn bên bán được quyền ưu tiên thanh toán khi mà bên mua có rủi ro, đảm bảo quyền lợi cho bên bán có thể nhận được đầy đủ giá trị tài sản khi giao tài sản cho bên mua.

II. Bình luận về thực trạng của BLQSH theo quy định của BLDS 2015

1. Đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu

· Điều kiện của tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu

- Để có thể trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán nói chung, đối tượng của BLQSH nói riêng, tài sản phải thuộc loại được phép lưu thông. Tài sản đó có thể là tài sản tự do lưu thông hoặc hạn chế lưu thông. Còn những loại tài sản đã bị cấm lưu thông thì các chủ thể không được mua bán các loại tài sản đó.

- Tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán nói chung, đối tượng của BLQSH nói riêng phải thuộc sở hữu của bên bán. Tuy nhiên, có nhưng trường hợp luật định, người bán tài sản có thể không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng cũng có quyền bán tài sản cho người khác như bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm được quy định tai Điều 299 BLDS 2015. Ví dụ: M cầm cố tài sản để vay N số tiền là 100 triệu đồng. Khi hết hạn mà M không trả được thì N có quyền xử lý tài sản cầm cố thông qua một trong các phương thức mà các bên thỏa thuận hoặc luật định như bán trực tiếp.

Hay, chấp hành viên tiến hành cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án thông qua việc bán đấu giá tài sản. Đây cũng là trường hợp bên bán tài sản không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng lại là người có quyền bán tài sản theo quy định của luật.

- Trong quan hệ mua bán nói chung, trong quan hệ BLQSH nói riêng, tài sản phải được xác định cụ thể về số lượng, chất lượng, chủng loại,... sẽ giúp cho bên bán có thể thực hiện quyền đòi lại tài sản một cách dễ dàng hơn trong trường hợp bên mua không thanh toán hết tiền mua tài sản.

- Không phải là tài sản đang có tranh chấp về quyền sở hữu. Tài sản đang tranh chấp về quyền sở hữu thì không thể xác định được tài sản đó có thuộc sở hữu của bên bán hay không và khó có thể bảo đảm được quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua bán. Điều này có thể dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng.

- Không phải là tài sản đang bị kê biên để chờ thi hành án hoặc để thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Không phải là đối tượng của các biện pháp bảo đảm khác. Một tài sản đang là đối tượng của biện pháp bảo đảm (cầm cố, thế chấp) chỉ có thể trở thành đối tượng của BLQSH nếu như bên nhận bảo đảm trước đó đã đồng ý hoặc luật có quy định cho phép chủ sở hữu được bán tài sản bảo đảm.

Ngoài ra, tài sản là đối tượng của BLQSH nếu là vật thì phải là vật không tiêu hao mới có thể xác lập BLQSH.

· Đặc trưng của tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu

Tài sản là đối tượng của BLQSH không thuộc sở hữu của bên bảo đảm; Thường là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản là đối tượng của BLQSH là đối tượng của hợp đồng mua bán có nghĩa vụ được bảo đảm bằng BLQSH; Đối tượng của BLQSH không bị xử lý ngay cả khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ; Giá trị của tài sản là đối tượng của BLQSH luôn lớn hơn hoặc bằng với gái trị của nghĩa vụ cần phải thanh toán.

2. Chủ thể: Bao gồm hai bên sau đây:

Bên bảo lưu: Là bên phải chấp nhận quyền bảo lưu của bên kia. Vì vậy, bên bảo lưu chính là bên mua trong hợp đồng mua bán tài sản có BLQSH.

Bên nhận bảo lưu: Là bên được thực hiện quyền BLQSH đối với tài sản bán. Vì vậy, bên nhận bảo lưu chính là bên bán trong hợp đồng mua bán tài sản có BLQSH.

3. Phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu

Phạm vi bảo đảm của BLQSH có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ thanh toán của bên mua đối với bên bán. BLDS 2015 không quy định phạm vi bảo đảm của BLQSH là một phần hay toàn bộ nghĩa vụ thanh toán. Thực tế, tồn tại các ý kiến khác nhau về căn cứ xác định phạm vi bảo đảm của BLQSH. Có ý kiến cho rằng phạm vi bảo đảm của BLQSH là do các bên thỏa thuận, bởi vì BLQSH gắn với hợp đồng mua bán tài sản nên việc các bên thỏa thuận phương thức mua bán là trả chậm hay trả dần là yếu tố xác định phạm vi bảo đảm của tài sản. Ý kiến khác cho rằng phạm vi bảo đảm của BLQSH là do luật định, vì khi xác lập BLQSH, các bên không cần thỏa thuận về việc BLQSH bảo đảm cho nghĩa vụ gì thì vẫn có thể xác định được BLQSH là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán của bên mua đối với bên bán quy định tại Điều 331 BLDS 2015.

Phạm vi bảo đảm của BLQSH phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên về phương thức thanh toán vì nghĩa vụ thanh toán của bên mua là số tiền mua tài sản mà bên mua phải trả theo thỏa thuận của các bên. Đây được coi là nghĩa vụ được bảo đảm bằng BLQSH theo khoản 1 Điều 331 BLDS 2015. Tuy nhiên, khi giao kết hợp đồng mua bán tài sản, các bên có thể thỏa thuận bên bán sẽ trả một phần tiền mua tài sản tại thời điểm nhận tài sản, các phần còn lại sẽ trả dần hoặc bên bán sẽ trả toàn bộ số tiền mua tài sản vào một thời điểm sau khi nhận tài sản. Sự thỏa thuận này sẽ ảnh hưởng đến việc xác định phạm vi bảo đảm của BLQSH là một phần hay là toàn bộ nghĩa vụ thanh toán: Nếu khi nhận tài sản, bên mua không trả bất cứ khoản tiền nào mà sẽ trả toàn bộ tiền mua tài sản sau một thời gian nhất định thì phạm vi bảo đảm của BLQSH là toàn bộ nghĩa vụ thanh toán của bên mua đối với bên bán phát sinh từ hợp đồng mua bán; Còn nếu tại thời điểm nhận tài sản, bên mua đã thanh toán một phần tiền mua tài sản thì phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm bằng BLQSH sẽ là phần nghĩa vụ thanh toán còn lại (tức phạm vi bảo đảm chỉ là một phần nghĩa vụ).

Như vậy, đối với BLQSH, sự thỏa thuận này đơn thuần chỉ là thỏa thuận về phương thức thanh toán tiền là trả chậm hay trả dần và tại thời điểm phát sinh BLQSH, bên mua có thực hiện phần nghĩa vụ nào không. Ngay cả khi trong văn bản BLQSH không ghi rõ phạm vi bảo đảm là một phần hay toàn bộ nghĩa vụ thì căn cứ vào sự thỏa thuận về phương thức thanh toán trong hợp đồng mua bán vẫn có thể xác định được phạm vi bảo đảm là một phần hay toàn bộ nghĩa vụ. Trong BLQSH, khi bên mua thanh toán theo từng giai đoạn thì mỗi giai đoạn thanh toán, phạm vi bảo đảm bằng BLQSH sẽ giảm dần.

4. Hình thức của bảo lưu quyền sở hữu

Biện pháp BLQSH là một trong hai biện pháp bảo đảm đặc biệt BLDS có quy định riêng về hình thức xác lập. Theo đó, khoản 2 Điều 331 BLDS 2015 quy định: “Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán”. Sở dĩ, BLDS quy định như vậy là do BLQSH là một trường hợp đặc biệt của hợp đồng mua bán, thể hiện ở chỗ thời điểm chuyển quyền sở hữu không phải là thời điểm chuyển giao tài sản hay thời điểm đăng ký mà lại là thời điểm bên mua trả hết tiền mua tài sản. Theo quy định thì BLQSH phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mua bán. Nếu các bên có thỏa thuận về biện pháp BLQSH thì bên bán có thể yêu cầu bên mua trả lại tài sản nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Nếu các bên không thỏa thuận về BLQSH và bên mua không thanh toán tiền đúng hạn thì quyền sở hữu tài sản có thể đã thuộc về bên mua và bên bán sẽ không được quyền đòi lại tài sản mà chỉ có thể yêu cầu phải thanh toán tiền mua tài sản. Thậm chí, nếu các bên thỏa thuận về BLQSH nhưng không xác lập bằng văn bản thì khi có tranh chấp xảy ra, bên bán cũng khó có thể chứng minh sự thỏa thuận đó là có thực, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do đó, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì bằng chứng để chứng minh các bên đã có sự thỏa thuận về biện pháp BLQSH chính là văn bản thể hiện sự thỏa thuận đó.

Có ý kiến cho rằng việc quy định bắt buộc hình thức xác lập BLQSH bằng văn bản đã vô tình tước đi quyền tự do lựa chọn hình thức của các bên. Ý kiến này là chưa hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, sự tự do ở đây không có nghĩa là không có giới hạn mà nó phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hơn thế nữa, khi các bên lựa chọn biện pháp BLQSH, có thể các bên đã biết được quy định về hình thức của sự thỏa thuận phải bằng văn bản nhưng các bên vẫn chấp nhận quy định đó. Và vì thế mà việc lựa chọn hay không lựa chọn biện pháp BLQSH cũng chính là quyền tự do của các bên.

5. Hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu

5.1. Các điều kiện có hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu

BLQSH phát sinh hiệu lực khi có đầy đủ bốn điều kiện sau: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện, khi giao kết giao dịch phải có sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí của các bên; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; Hình thức của BLQSH phải được thể hiện bằng văn bản.

5.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu

BLDS 2015 không có quy định riêng về thời điểm phát sinh hiệu lực của BLQSH. Do đó, thời điểm phát sinh hiệu lực của BLQSH chỉ có thể là thời điểm các bên các bên thỏa thuận hoặc thời điểm giao kết.

Về thời điểm do các bên thỏa thuận: Nếu trong văn bản về BLQSH, các bên có thỏa thuận xác định cụ thể về thời điểm có hiệu lực của BLQSH thì thời điểm phát sinh hiệu lực của BLQSH là thời điểm các bên đã xác định. Tuy nhiên các bên không thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của BLQSH là thời điểm trước khi các bên giao kết hợp đồng mua bán tài sản cũng như trước khi các bên giao kết hợp đồng về BLQSH. Có hai cách các bên thỏa thuận về thời điểm phát sinh hiệu lực BLQSH: Thỏa thuận trực tiếp là trường hợp các bên xác lập văn bản riêng về BLQSH hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán tài sản; Thỏa thuận gián tiếp là trường hợp các bên không thiết lập văn bản riêng về BLQSH mà chọn cách ghi nội dung BLQSH vào hợp đồng mua bán tài sản. Lúc này, BLQSH là một hoặc một số điều khoản của hợp đồng mua bán.

Về thời điểm giao kết: Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm phát sinh hiệu lực của BLQSH mới xác định theo thời điểm giao kết hợp đồng BLQSH. Do đó, thời điểm giao kết hợp đồng bảo lưu quyền sở hữu chính là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hoặc bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản theo quy định tại khoản 4 Điều 400 BLDS 2015. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của BLQSH có trùng lặp hay không trùng với thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng mua bán tài sản có ý nghĩa pháp lý quan trọng, cụ thể:

Trường hợp thời điểm phát sinh hiệu lực của BLQSH trùng với thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng mua bán tài sản thì thỏa thuận về BLQSH hoàn toàn có giá trị thi hành. Ví dụ: X bán cho Y chiếc xe máy. Hợp đồng được công chứng ngày 20/10/2018, trong đó thỏa thuận thời điểm xác lập quyền sở hữu cho Y là thời điểm hoàn thành việc sang tên nhưng các bên chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 28/10 X và Y ký thỏa thuận về BLQSH, X được BLQSH đối với chiếc xe cho đến khi Y trả hết tiền. Trường hợp này, thỏa thuận về BLQSH phát sinh hiệu lực sau hợp đồng mua bán.

Trường hợp quyền sở hữu tài sản đã được xác lập cho bên mua theo Điều 161 BLDS 2015. Lúc này, việc xác lập thỏa thuận về BLQSH không còn ý nghĩa và không có giá trị bắt buộc với các bên. Ví dụ: A bán cho B chiếc điện thoại, các bên thỏa thuận A sẽ giao điện thoại cho B sau 3 ngày kể từ ngày giao kết còn B sẽ trả tiền cho A ngay sau khi nhận tài sản. Ngày 15/1/2019, A và B lập hợp đồng mua bán điện thoại. Sáng ngày 18/1/2019 A giao điện thoại cho B nhưng chiều tối cùng ngày B xin trả tiền vào ngày 20/1/2019 và A đồng ý. Cũng trong chiều tối ngày 18/1/2019 A và B lập văn bản thỏa thuận về BLQSH, theo đó A được BLQSH cho đến khi B trả xong tiền. Trường hợp này, sáng 18/1/2019 A giao điện thoại cho B và không có thỏa thuận gì nên quyền sở hữu chiếc điện thoại đã được xác lập cho B. Tuy nhiên chiều tối 18/1/2019 A và B mới ký văn bản thỏa thuận về BLQSH là hoàn toàn không có giá trị vì khi thỏa thuận về BLQSH được xác lập, quyền sở hữu chiếc điện thoại đã thuộc về B, nên thỏa thuận về BLQSH không có ý nghĩa.

5.3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong bảo lưu quyền sở hữu

Khoản 3 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định: “Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Như vậy, việc đăng ký bảo lưu quyền sở hữu không được xem như một quy định bắt buộc về hình thức để thoả thuận này có hiệu lực. Nó chỉ là cơ sở để làm phát sinh giá trị đối kháng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu với người thứ ba. Điều này có nghĩa là nếu không được đăng ký, biện pháp bảo đảm này chỉ có giá trị trong quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch.

BLDS 2015 chưa xác định rõ giá trị của hiệu lực đối kháng trong trường hợp bên mua tài sản bán lại tài sản này cho người khác. Thiết nghĩ, giải pháp là người mua tài sản cần phải chấp nhận quyền của bên bán (đang vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản).[5]

6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu

6.1. Bên bán tài sản

Dưới góc độ là một biện pháp bảo đảm, BLQSH cho phép bên bán đòi lại tài sản trong trường hợp bên mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Điều 332 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Trường hợp làm mất, hư hỏng thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Trường hợp bên mua không trả lại số tiền chưa trả thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua thanh toán. Nếu thời hạn trả chậm, trả dần đã hết mà bên mua cố tình không trả hết tiền mua thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán trả lại cho bên mua số tiền đã thanh toán sau khi khấu trừ hao mòn do bên mua đã sử dụng. Trường hợp bên mua làm hư hỏng, mất mát tài sản thì phải bồi thường thiệt hại và số tiền đã thanh toán được bù trừ vào tiền bồi thường thiệt hại. [6]

Như đã phân tích, để thực hiện được quyền này, tài sản đó phải còn tồn tại nguyên vẹn trong khối tài sản của bên mua. Khi lấy lại tài sản, nếu bên mua đã thanh toán một phần tiền hàng cho bên bán thì bên bán có nghĩa vụ trả lại số tiền đó cho bên mua. Trong quá trình bên mua đã sử dụng, tài sản có thể bị giảm sút giá trị, khi đó bên bán chỉ phải trả lại số tiền bên mua đã thanh toán trừ đi giá trị hao mòn tài sản. Tuy nhiên, nếu bên mua chưa thanh toán cho bên bán nhưng tài sản đã bị hao mòn thì khi đó bên bán có quyền đòi bên mua bồi thường thiệt hại do tài sản bị hao mòn.

6.2. Bên mua tài sản

Điều 333 BLDS 2015 quy định bên mua tài sản có quyền và nghĩa vụ như sau:“1. Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực; 2. Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Quy định này cho thấy bên mua tài sản là bên bảo đảm trong giao dịch bảo đảm BLQSH tài sản. Khi nhận được tài sản mua bán, bên mua tài sản có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn BLQSH có hiệu lực. Trong thời gian BLQSH, bên mua phải chịu rủi ro về tài sản mua bán. Đây là một điểm đặc biệt của chế định BLQSH của BLDS 2015, bởi vì về nguyên tắc, quyền sở hữu tài sản thuộc về ai thì người đó phải chịu rủi ro về tài sản đó. [7] Nếu việc khai thác, sử dụng tài sản mua bán làm hư hỏng, mất tài sản thì trong trường hợp bên mua không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì bên mua phải chịu rủi ro trong thời hạn BLQSH. Bên mua phải có nghĩa vụ phải bồi thường các thiệt hại nếu xảy ra thiệt hại đối với tài sản mua bán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận là bên mua sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với những rủi ro về tài sản mua bán đó.

Trong trường hợp mua trả chậm, trả dần, “bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có quy định khác”. Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản mua bán là mục đích chính của bên mua khi giao kết hợp đồng mua bán tài sản. Vì thế, theo quy định tại Điều 333, ngay cả khi quyền sở hữu chưa được chuyển giao, bên mua vẫn có quyền sử dụng và hưởng lợi từ tài sản; thỏa thuận BLQSH không gây ảnh hưởng đến các quyền đó của bên mua. Đối với trường hợp mua trả chậm, trả dần, BLDS chỉ khẳng định quyền sử dụng mà không đề cập đến quyền hưởng lợi từ tài sản mua bán. Đây là điểm chưa rõ ràng của BLDS 2015 về bảo lưu quyền sở hữu. [8]

7. Chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu

      Biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu chấm dứt nếu thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 334 BLDS 2015, cụ thể như sau:

      Trường hợp thứ nhất, bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán:“1. Nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong”. Đây là trường hợp bên mua hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận. Việc chấm dứt BLQSH trong trường hợp này phù hợp với ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng mua bán. Dù nghĩa vụ thanh toán đã được hoàn thành, bên bán có phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên mua hay không sẽ phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể: Nếu tài sản mua bán là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì việc hoàn thành nghĩa vụ thanh toán là thời điểm phát sinh quyền sở hữu của bên mua, bên bán không phải thực hiện bất cứ nghĩa vụ gì. Khi đó hợp đồng sẽ được coi là hoàn thành và chấm dứt cùng thời điểm chấm dứt BLQSH và ngược lại.

      Trường hợp thứ hai, bên bán nhận lại tài sản BLQSH quy định tại khoản 2 Điều 334: “2. Bên bán nhận lại tài sản bảo lưu quyền sở hữu”. Điều này xảy ra trong trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản. Việc chấm dứt BLQSH trong trường hợp này gắn liền với việc hợp đồng mua bán không hoàn thành như mong muốn của các bên hoặc một bên. Theo quy định tại Điều 332, khi bên bán đòi lại tài sản thì cũng phải trả lại cho bên mua số tiền mà bên mua đã thanh toán sau khi trừ đi hao mòn trong quá trình sử dụng. Hậu quả của việc chấm dứt BLQSH trong trường hợp này chính là việc các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Việc bên bán nhận lại tài sản, bên mua nhận lại số tiền đã thanh toán chính là yếu tố cho thấy hợp đồng mua bán đã mặc nhiên chấm dứt. [9]Với biện pháp BLQSH, dường như sự vi phạm của bên có nghĩa vụ sẽ buộc bên bán phải chấp nhận một cách xử lý duy nhất đó là đòi lại tài sản và trả lại tiền. Chính quy định về việc xử lý khi bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã khiến cho BLQSH không phản ánh được bản chất của một biện pháp bảo đảm.[10]

Trường hợp thứ ba, theo thỏa thuận của các bên được quy định tại khoản 3 Điều 334 BLDS 2015. Đây là trường hợp BLQSH chấm dứt theo ý chí của các bên. Việc chấm dứt này có thể xảy ra trong cả trường hợp bên mua đã thanh toán hay chưa thanh toán hết tiền mua tài sản, thậm chí là đã hết thời hạn BLQSH hay chưa. Việc chấm dứt BLQSH theo thỏa thuận có thể là: Các bên đồng thời chấm dứt hợp đồng mua bán và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; Bên bán miễn việc thực hiện nghĩa vụ trả số tiền mua tài sản còn lại cho bên mua, tài sản khi đó vẫn thuộc về bên mua mặc dù nghĩa vụ thanh toán tiền mua tài sản chưa hoàn thành;...

Mặc dù, BLDS chỉ quy định về ba trường hợp chấm dứt BLQSH. Song, thực tế, BLQSH còn có thể chấm dứt trong các trường hợp như tài sản BLQSH không còn, BLQSH được thay thế bằng một biện pháp bảo đảm khác,... Các bên có thể thỏa thuận lựa chọn căn cứ chấm dứt phù hợp nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

III. Những hạn chế và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015

1. Những hạn chế của BLQSH theo quy định của BLDS 2015

Thứ nhất, việc quy định về bảo lưu quyền sở hữu ở cả hai chế định với hai phương thức xác lập khác nhau là vấn đề hạn chế của BLDS về BLQSH. Dù tồn tại ở hai chế định khác nhau thì các quyền và nghĩa vụ của các bên vẫn không có sự thay đổi. Về nguyên tắc nếu bên mua không thanh toán hết tiền mua tài sản thì bên bán vẫn có quyền đòi lại tài sản và phải trả lại tiền cho bên mua, bên mua phải trả lại tài sản và được nhận lại tiền. Nhưng rõ ràng việc quy định như hiện nay dễ khiến cho các nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực tiễn có quyền suy đoán và áp dụng khác nhau về BLQSH, gây khó khăn trong việc xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên khi bên mua trong hợp đồng mua trả chậm, trả dần không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.

Thứ hai, có thể thấy việc thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là một biện pháp bảo đảm chỉ là sự miễn cưỡng của các nhà làm luật [11]. Nếu một biện pháp được thừa nhận mà không có chức năng bảo đảm và tính dự phòng thì không thể bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ với bên nhận bảo đảm (bên có quyền). Trong khi đó, BLQSH không mang tính bảo đảm và tính dự phòng của một biện pháp bảo đảm. Dưới góc độ thực tiễn bên bán hoàn toàn không có bất cứ thứ gì để bảo đảm cho quyền yêu cầu bên mua thanh toán đúng hạn, quyền đòi lại tài sản từ bên mua cũng như quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu bên mua làm mất mát, hư hỏng tài sản.

Thứ ba, về Điều 322 BLDS 2015, tên gọi của điều luật này là quyền đòi lại tài sản, về nguyên tắc tên của điều luật này phải quy định về các quyền liên quan đến việc đòi lại tài sản mới phù hợp với tên gọi. Điều 322 còn quy định về nghĩa vụ của bên bán trong việc hoàn trả số tiền mua bên mua đã thanh toán cho bên bán. Rõ ràng quy định này đã thể hiện sự không thống nhất giữa tên gọi và nội dung của điều luật.

Thứ tư, với các quy định tại Điều 333 BLDS 2015 về quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản, theo đó bên mua có quyền “sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Theo quy định tại Điều 189 BLDS 2015 thì quyền sử dụng là “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Song, khoản 1 Điều 333 lại quy định bên mua có “quyền sử dụng tài sản” và “hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” là chưa hợp lý. Bởi bản thân khái niệm “quyền sử dụng tài sản” đã bao hàm cả nội dung của quyền hưởng hoa lợi, lợi tức trong đó.

Thứ năm, BLDS 2015 chỉ quy định ba trường hợp về chấm dứt BLQSH. Song, ngoài ba trường hợp được quy định tại Điều 334 BLDS thì BLQSH vẫn có thể chấm dứt trong các trường hợp khác như BLQSH được thay thế bằng các biện pháp bảo đảm khác; tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán nói chung, BLQSH nói riêng không còn; hợp đồng mua bán chấm dứt do bị hủy bỏ hoặc bị đơn phương chấm dứt,...

2. Một số kiến nghị  hoàn thiện pháp luật về BLQSH theo quy định của BLDS 2015

Thứ nhất, để hạn chế những quan điểm mâu thuẫn nhau về BLQSH, đồng thời để có thể thống nhất được các quy định này trong một chế định thống nhất nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực tiễn có thể hiểu đúng và áp dụng chính xác các quy định về BLQSH các nhà làm luật nên hợp nhất quy định về BLQSH trong một chế định thống nhất. Do đây là một quá trình lâu dài nên trước hết khi ban hành văn bản hướng dẫn về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, cần có quy định nhằm hướng dẫn cụ thể về BLQSH theo hướng xác định BLQSH trong hai chế định là có cùng bản chất để có thể thống nhất trong cách hiểu và áp dụng chúng.

Thứ hai, để khắc phục sự không thống nhất giữa tên gọi và nội dung của Điều 322 BLDS 2015, có thể có thể sửa tên Điều 322 thành Quyền và nghĩa vụ của bên bán cho phù hợp với nội dung của điều luật này.

Thứ ba, nhà làm luật cần cân nhắc sửa đổi khoản 1 Điều 333 BLDS 2015 theo hướng: “Khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn BLQSH có hiệu lực”.

Thứ tư, các nhà làm luật cần cân nhắc bổ sung thêm các trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu vào Điều 334 BLDS cho phù hợp về mặt thực tiễn cũng như lý luận.

        Tóm lại, bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thông dụng được các nước trên thế giới ghi nhận và áp dụng rộng rãi, điển hình như Pháp, Đức, Nhật Bản… Việt Nam cũng có những ghi nhận bước đầu về biện pháp bảo đảm này thông qua việc bổ sung biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Bảo lưu quyền sở hữu vào Bộ luật Dân sự 2015. Đây là điều hết sức cần thiết nhằm tạo hành lang pháp lý cho các bên tham gia vào giao dịch dân sự có nhiều phương án để lựa chọn biện pháp bảo đảm, các giao dịch được diễn ra một cách thiện chí, bình đẳng đảm bảo được tính linh hoạt cho quá trình ký kết, tham gia, thực hiện hợp đồng dân sự của các chủ thể, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, các nhà làm luật cần phải đưa ra những quy định hợp lý, cụ thể hơn để khắc phục những bất cập từ thực tế, để hoàn chỉnh hơn hệ thống pháp luật.

Nguyễn Thị Việt Hà - Công ty Luật TNHH H&M


[1] PGS. TS. Phạm Văn Tuyết (Chủ biên), “Hướng dẫn môn học Luật Dân sự tập 2”, N.x.b. Tư pháp, 2017, tr. 188.

[2] PGS. TS. Phạm Văn Tuyết (Chủ biên), “Hướng dẫn môn học Luật Dân sự tập 2”, N.x.b. Tư pháp, 2017, tr. 189.

[3] Là biện pháp thứ 6 được nêu tại Điều 292 BLDS 2015.

[4] Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015.

[5] TS. Đoàn Thị Phương Diệp - Khoa Luật, Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. HCM, “Cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu theo Bộ luật dân sự năm 2015”.

[6] PGS. TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS. TS. Trần Thị Huệ, “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, N.x.b. Công an Nhân dân, 2017, tr. 529.

[7] Khoản 1 Điều 162 BLDS 2015: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

[8] Đỗ Viết Anh Thái, “Bảo lưu quyền sở hữu của người bán đối với tài sản mua bán theo BLDS năm 2015”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2016, tr.25.

[9] Giáp Minh Tâm, “Luận văn Thạc sỹ Luật học: Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017, tr. 70.

[10] Bùi Đức Giang, “Lập pháp, nhìn từ quy định của bảo lưu quyền sở hữu tài sản”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online, 2017.

[11] Giáp Minh Tâm, “Luận văn Thạc sỹ Luật học: Bảo lưu quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017, tr. 79.

Các tin khác