0240.73088281
Logo

Bình luận về các điểm mới trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 liên quan đến bảo hộ quyền tác giả

Quyền tác giả từ lâu là đã là một trong những chế định pháp lý quan trọng của lĩnh vực SHTT. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc bảo hộ quyền tác giả trở thành vấn đề cấp thiết cần được quan tâm sâu sắc. Để tương thích với sự phát triển đó, pháp luật SHTT Việt Nam nói chung và quy định về bảo hộ quyền tác giả nói riêng đã có những điểm mới thể hiện qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật SHTT năm 2022.

I. Một số vấn đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả

1. Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả 

1.1. Khái niệm quyền tác giả

Khái niệm quyền tác giả xuất hiện từ khi được pháp luật thừa nhận và bảo hộ cũng như có nhiều cách tiếp cận khác nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, về cơ bản, quyền tác giả thường được xem xét dưới các góc độ dưới đây:

Thứ nhất, dưới góc độ chủ quan: Quyền tác giả là phạm vi các quyền bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể, gồm tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do họ sáng tạo ra hoặc được sở hữu.

Thứ hai, dưới góc độ khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc tạo ra và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, qua đó xác nhận các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời quy định trình tự và phương thức bảo hộ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.[1]

1.2. Đặc điểm của quyền tác giả

Bên cạnh những đặc điểm chung của quyền SHTT, nhằm phân biệt với các bộ phận khác như quyền sở hữu công nghiệp hay quyền đối với giống cây trồng thì quyền tác giả có những đặc điểm riêng như sau:

Thứ nhất, đối tượng của quyền tác giả là sản phẩm của hoạt động sáng tạo tinh thần. Nếu các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là sản phẩm của hoạt động sáng tạo thiên về tính kỹ thuật như giải pháp kỹ thuật hoặc không cần tính sáng tạo như nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, thì các đối tượng của quyền tác giả chủ yếu là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật với mục đích chủ yếu là thoả mãn nhu cầu tinh thần và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực này. Theo đó, mỗi tác phẩm đều mang dấu ấn sáng tạo tinh thần riêng và phản ánh tư tương, nhân sinh quan, tình cảm… của tác giả.

Thứ hai, quyền tác giả được xác lập tự động. Cụ thể, việc xác lập quyền tác giả không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào mà phát sinh một cách đương nhiên khi tác phẩm đã được định hình dưới một hình thức nhất định. Khi đó, các quyền của tác giả, chủ sở hữu đối với tác phẩm sẽ mặc nhiên được pháp luật ghi nhận và bảo hộ mà không cần phải thực hiện việc đăng ký quyền tác giả.

Thứ ba, quyền tác giả chỉ bảo hộ về hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ ý tưởng sáng tạo. Trên thực tế, các ý tưởng, thông tin, các “chất liệu” tự nhiên hay xã hội để sáng tạo ra tác phẩm được coi là tài sản chung của nhân loại nên hoàn toàn không thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả. Do đó, quyền tác giả chỉ được pháp luật bảo hộ khi được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất địnhh để công chúng có thể tiếp cận, nhận biết, xác định được tác phẩm.

2. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả

Bảo hộ quyền tác giả là một trong những khía cạnh của bảo hộ quyền SHTT và khái niệm bảo hộ quyền tác giả có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như sau:

Dưới góc độ khách quan: Bảo hộ quyền tác giả là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập, công nhận, thực hiện quyền tác giả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền chống lại các hành vi xâm phạm. Theo góc độ này, khi các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phậm bị xâm phạm bởi các chủ thể khác thì các chủ thể này sẽ bị xử lý vi phạm căn cứ vào quy định pháp luật.

Dưới góc độ chủ quan: Bảo hộ quyền tác giả được hiểu các hoạt động thực tế liên quan đến việc xác lập, quản lý, sử dụng, khai thác quyền tác giả, bảo vệ quyền tác giả và chống lại các hành vi xâm phạm.

Có thể thấy, bảo hộ quyền tác giả có ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống. Bởi bảo hộ quyền tác giả chính là bảo vệ thành quả lao động, nỗ lực sáng tạo tác phẩm của các chủ thể. Không những thế, nó còn đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu di sản văn hoá quốc gia. Do đó, việc khuyến khích sáng tạo là điều kiện tất yếu trong quá trình phát triển cũng như tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trên thị trường, giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.[2]

II. Những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022 liên quan đến bảo hộ quyền tác giả

Luật SHTT sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022 (sau đây gọi tắt là “Luật SHTT sửa đổi năm 2022”) được ban hành trong bối cảnh kinh tế - xã hội đất nước và quốc tế có nhiều chuyển biến, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng… Do đó, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 được đánh giá là lần sửa đổi, bổ sung toàn diện nhất cũng như được kỳ vọng thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động kinh doanh thương mại, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.[3] Trong đó, liên quan đến bảo hộ quyền tác giả, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 có những điểm mới cụ thể như sau:

1. Sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện bảo hộ quyền tác giả

1.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng được bảo hộ quyền tác giả

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 và Điều 14 Luật SHTT năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 (sau đây gọi tắt là “Luật SHTT năm 2005”) thì đối tượng của quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học cũng như tác phẩm phái sinh. Luật SHTT sửa đổi năm 2022 vẫn giữ nguyên quy định trên, tuy nhiên đã có sự thay đổi cách giải thích một số thuật ngữ liên quan đến các đối tượng này, cụ thể như sau:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung cách giải thích thuật ngữ “tác phẩm phái sinh” tại khoản 8 Điều 4 Luật SHTT năm 2005. Theo đó, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã bổ sung nội dung “được sáng tạo trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có”. Việc bổ sung nội dung nêu trên nhằm nhấn mạnh các tác phẩm phái sinh cũng là sản phẩm của tính sáng tạo mà không phải là một sự chuyển đổi đơn thuần hay sao chép một cách cơ học.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung cách giải thích thuật ngữ “tác phẩm đã công bố” tại khoản 9 Điều 4 Luật SHTT năm 2005. Cụ thể, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 quy định tác phẩm đã công bố là tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả để phổ biến đến công chúng bản sao “dưới bất kỳ hình thức nào” với số lượng hợp lý. Nội dung về hình thức của của bản sao được bổ sung như trên đã góp phần bao quát hết tất cả những hình thức có thể phát sinh trên thực tế như bản sao vật lý, bản sao điện tử hay bất kỳ một hình thức khác có thể hình thành trong tương lai.

1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về chủ thể được bảo hộ quyền tác giả

Theo quy định tại Điều 13 Luật SHTT năm 2005 thì chủ thể có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả. Đồng thời, Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT về quyền tác giả, quyền liên quan cũng đã giải thích rõ khái niệm về tác giả, đồng tác giả. Tuy nhiên, các quy định này đã được bổ sung trong Luật SHTT sửa đổi năm 2022 như sau:

Thứ nhất, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 không còn quy định tác giả là người tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bởi người tạo ra một phần tác phẩm đã thuộc nội hàm của khái niệm đồng tác giả, cũng như không còn quy định rõ tác phẩm bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học bởi đã được quy định tại Điều 4 Luật SHTT. Thay vào đó, Điều 12a được bổ sung đã quy định: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm” nhằm nhấn mạnh yếu tố trực tiếp và yếu tố sáng tạo đối với việc tạo ra tác phẩm.

Thứ hai, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã bổ sung khoản 3 Điều 12a về việc phân biệt giải quyết lợi ích giữa các đồng tác giả trong trường hợp tác phẩm là một thể thống nhất, không thể phân chia tác phẩm thành từng phần để khai thác sử dụng thì phải có sự thoả thuận của tất cả đồng tác giả, với trường hợp tác phẩm có thể phân chia thành từng phần riêng biệt để khai thác, sử dụng thì không được làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác. Đây là một quy định cần thiết nhằm giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các đồng tác giả đối với phần quyền tác giả của mình và là căn cứ để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền giữa các đồng tác giả trên thực tế.

2. Sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung bảo hộ quyền tác giả

Nội dung bảo hộ quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã có những sửa đổi, bổ sung liên quan đến nội dung bảo hộ quyền tác giả như sau:

Thứ nhất, quy định về quyền nhân thân đã được bổ sung thêm nội dung: “Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này”. Như vậy, bên cạnh quyền công bố tác phẩm thì Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã bổ sung thêm một trường hợp quyền nhân thân có thể được chuyển giao cho chủ thể khác, đó là trường hợp chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho chủ thể nhận chuyển giao quyền tài sản.

Thứ hai, quy định về quyền tài sản được bổ sung nhiều nội dung chi tiết hơn so với trước đây. Cụ thể, đối với quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã nêu rõ hình thức biểu diễn có thể là “trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm”. Tương tự như vậy, quyền sao chép tác phẩm cũng bổ sung chi tiết về hình thức là “trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào” và quyền phân phối, nhập khẩu tác phẩm cũng bổ sung nội dung về mục đích là “để phân phối đến công chúng” với hình thức là “bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác… dưới dạng hữu hình”.

Riêng đối với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 20, có thể thấy nhà làm luật đã thay đổi quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng theo quy định cũ thành quyền phát sóng, truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Có thể thấy, sự khác biệt giữa việc phát sóng và truyền đạt đến công chúng nằm ở phương tiện truyền đạt. Theo đó, hoạt động phát sóng tác phẩm được thực hiện thông qua phương tiện vô tuyến, còn việc truyền đạt tác phẩm được thực hiện thông qua bất kỳ phương tiện nào khác ngoài phát sóng. Do đó, việc quy định như hiện nay có thể dẫn đến nhầm lẫn rằng quyền phát sóng có thể thực hiện bằng các phương thức của quyền truyền đạt tác phẩm như phương tiện hữu tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.

Đặc biệt, Điều 20 quy định về quyền tài sản đã bổ sung những hành vi mà chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Trong đó, hành vi “Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối” cho thấy nhà làm luật đã cụ thể hoá học thuyết cạn quyền (hết quyền) sở hữu trí tuệ đối với quyền tác giả, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, giải quyết tình trạng không rõ ràng về quyền SHTT đối với các tác phẩm lưu thông trên thị trường.[4]

3. Sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả

Trước hết, “ngoại lệ” được hiểu là “cái nằm ngoài cái chung được quy định”.[5] Như vậy, theo quy đinh chung, các tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả, tuy nhiên pháp luật có quy định các trường hợp nằm ngoài cái chung đó, tức là được phép sử dụng tác phẩm nhưng không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút thù lao.[6] Do đó, việc thay đổi tên điều luật từ “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao” thành “các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả” đã thể hiện tính bao quát và ngắn gọn hơn.

Trước hết, điều luật đã sửa đổi theo hướng quy định chi tiết hơn một số các trường hợp ngoại lệ như:

(i) Trường hợp tự sao chép một bản của tác phẩm đã bổ sung trường hợp sử dụng cho hoạt động học tập và không nhằm mục đích thương mại cũng như không áp dụng cho trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép. Ngoại lệ này đã góp phần thể chế hoá quy định tại Điều 41 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam nhằm cho phép mọi chủ thể có quyền hưởng thụ, tiếp cận các giá trị văn hoá cũng như sử dụng các cơ sở văn hoá phù hợp với quy định pháp luật;

(ii) Trường hợp sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu đã được sửa đổi thành hành vi sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại và liệt kê chi tiết các hành vi, giới hạn số lượng người đọc tại cùng một thời điểm. Quy định sửa đổi này là cần thiết trong bối cảnh nhu cầu học tập, tiếp cận thông tin dưới dạng kỹ thuật số ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của việc học tập từ xa, học trực tuyến trên nền tảng mạng thông tin điện tử.[7]

(iii) Bổ sung thêm hành vi chụp ảnh, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện;

(iv) Bổ sung nội dung “không nhằm mục đích thương mại” vào các hành vi quy định tại điểm g, điểm h, điểm i khoản 1 Điều 25 Luật SHTT sửa đổi năm 2022.

Ngoài ra, Điều 25 Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã bổ sung thêm các trường hợp ngoại lệ mới như: Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại; Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh hoạ trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy; Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;… Đồng thời bổ sung quy định tại Điều 25a Luật SHTT sửa đổi năm 2022 về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật. Có thể thấy, quy định tại Điều 25, Điều 25a Luật SHTT sửa đổi năm 2022 là sự cụ thể hoá chính sách đảm bảo mức độ thoả đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền SHTT; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ SHTT trong quá trình hội nhập.[8]

4. Sửa đổi, bổ sung quy định về giới hạn bảo hộ quyền tác giả

Có thể thấy, tên của Điều 26 Luật SHTT đã được thay đổi từ “các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao” thành “giới hạn quyền tác giả”, từ đó thể hiện tính bao quát và ngắn gọn hơn. Về cơ bản, nội dung quy định về giới hạn quyền tác giả không thay đổi mà được diễn giải chi tiết hơn đối với từng hành vi. Bên cạnh đó, điều luật đã bổ sung trường hợp “Tổ chức, cá nhân có hưởng ưu đãi dành cho các nước đang phát triển đối với quyền dịch tác phẩm từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt và quyền sao chép để giảng dạy, nghiên cứu không nhằm mục đích thương mại” và trường hợp “Tổ chức, cá nhân có như cầu khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố của tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm được hoặc không thể xác định được chủ sở hữu quyền tác giả” được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 17/2023/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT về quyền tác giả, quyền liên quan.

5. Sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi xâm phạm quyền tác giả

Cách thức xây dựng quy định về các hành vi xâm phạm quyền tác giả tại Điều 28 Luật SHTT đã có sự thay đổi đáng kể so với trước đây. Theo đó, thay vì quy định liệt kê một cách rời rạc dễ dẫn đến tình trạng bỏ sót hành vi vi phạm, Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã được kết cấu khoa học hơn khi quy định một cách tổng quát các hành vi xâm phạm quyền nhân thân, quyền tài sản; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ về các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác cũng như về giới hạn quyền tác giả thì đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.

Đồng thời, các hành vi vi phạm quyền tác giả khác được bổ sung và quy định chi tiết hơn tại khoản 4, 5, 6, 7 Điều 28 Luật SHTT sửa đổi năm 2022 như bổ sung hành vi quảng cáo, quảng bá, tiếp thị, tàng trữ nhằm mục đích thương mại đối các thiết bị sản phẩm hoặc linh kiện, giới thiệu hoặc cung cấp dịch vụ khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị, sản phẩm, linh kiện hoặc dịch vụ đó được sản xuất, sử dụng nhằm vô hiệu hóa biện pháp công nghệ hữu hiệu bảo vệ quyền tác giả; hành vi cố ý gỡ bỏ thông tin quản lý quyền mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi biết hoặc có cơ sở để biết việc thực hiện hành vi đó sẽ xúi giục, tạo khả năng, tạo điều kiện thuận lợi hoặc che giấu hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật…

Có thể thấy, việc bảo hộ quyền tác giả hiện nay là vô cùng cần thiết và cấp bách bởi xâm phạm quyền tác giả không chỉ làm giảm nhiệt huyết của chủ sở hữu mà còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế xã hội.[9] Luật SHTT sửa đổi năm 2022 đã góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về SHTT nói chung và quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả nói riêng. Từ đó khắc phục những bất cập trong quá trình thi hành quy định của Luật SHTT trước đây, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng như phù hợp hơn với quy định của các quốc gia khác trên thế giới - một trong những vấn đề có ý nghĩa lớn đối với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam hiện nay.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 38.

[2] Hoàng Lệ Quyên (2021), Bảo hộ quyền tác giả trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 11.

[3] Mai Phạm Duy (2023), “Những điểm mới về quyền tác giả theo Luật SHTT sửa đổi năm 2022”, Tạp chí Nghề luật, (10), tr. 67.  

[4] Mai Phạm Duy (2023), “Những điểm mới về quyền tác giả theo Luật SHTT sửa đổi năm 2022”, Tạp chí Nghề luật, (10), tr. 71.

[5] Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng, tr. 661.

[6] Khoa Pháp luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội (2020), Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thời đại Cách mạng khoa học công nghiệp 4.0, Hội thảo khoa học cấp Khoa, Hà Nội, tr. 57.

[7] Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Pháp luật Sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Trường, Hà Nội, tr. 20.

[8] Phạm Thị Kim Oanh (2022), Giới thiệt Hiệp ước WCT, WPPT và các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT 2022, Hội thảo phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022, Hiệp ước WCT, WPPT, Hà Nội.

[9] Hoàng Lệ Quyên (2021), Bảo hộ quyền tác giả trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 67.

Các tin khác