0240.73088281
Logo

Thực trạng thực hiện nguyên tắc và những điều kiện để đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong tố tụng hình sự

1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự".

1.1.  Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nguyên tắc.

Từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực với sự quy định về nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" đã giúp cho quá trình tố tụng hình sự trên thực tế được diễn ra một cách công bằng, khách quan hơn. Có thể thấy trong thời gian vừa qua, số lượng án oan sai cũng đã giảm đáng kể nhờ việc đảm bảo quyền bào chữa của người buộc tội. Số lượng người bào chữa tham gia các vụ án hình sự tại Tòa án cũng tăng dần theo các năm.

Ví dụ về tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự có người bào chữa tham gia tố tụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nếu năm 2017 xét xử 1026 vụ án với 926 vụ có người bào chữa chiếm tỷ lệ 90.25%, thì đến năm 2018 tỷ lệ này đã tăng lên là 97.48% với 1123 vụ có người tham gia bào chữa trên tổng số 1152 vụ án[1]. Trong quá trình tranh luận, nhiều vụ án Luật sư cũng đã phân tích phản bác, đối đáp tranh luận lại với quan điểm của Viện kiểm sát, đưa ta các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được Hội đồng xét xử chấp nhận. Theo thống kê vào năm 2017, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm 1026 vụ án hình sự, có 100 vụ Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm bào chữa của người bào chữa mà chủ yếu là luật sư (chiếm tỷ lệ 9.75%)[2].

Như vậy, nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" về cơ bản đã được áp dụng và thực hiện một cách nghiêm túc trên thực tế cũng như đạt được những kết quả nhất định trong thời gian vừa qua.

1.2.  Những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện nguyên tắc.

Trong quá trình thực hiện nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự", tuy đã được những kết quả nhất định nhưng thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều những hạn chế khiến cho việc thực hiện nguyên tắc chưa được đảm bảo tốt nhất. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật. Một số điều luật còn quy định chung chung, chưa cụ thể rõ ràng. Từ đó gây khó khăn cho các chủ thể thực hiện, đồng thời trong một số trường hợp còn là sơ hở để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lợi dụng cản trở vi phạm quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Đặc biệt là chưa có chế tài, biện pháp xử lý cụ thể đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có hành vi vi phạm.

Thứ hai là những hạn chế đến từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

BLTTHS năm 2015 đã quy định rất rõ quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội. Tuy nhiên trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn vi phạm quyền này của người bị buộc tội khiến cho người bị buộc tội không biết mình có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Bên cạnh đó, tình trạng bức cung, mớm cung vẫn diễn ra gây ảnh hưởng đến lời khai của người bị buộc tội, làm cho quyền bào chữa của người bị buộc tội không phát huy được hiệu quả, mất đi tính khách quan trong quá trình tố tụng.

Việc cấp giấy chứng nhận bào chữa vẫn tồn tại nhiều bất cập như không được cấp đúng thời hạn. Thậm chí có những trường hợp, người bào chữa còn bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng "gây khó dễ" trong việc tiếp xúc với người bị buộc tội hay tiếp xúc với tài liệu, hồ sơ vụ án.

Quá trình tranh tụng tại phiên tòa đôi khi chưa thật sự dân chủ, chưa thể hiện đúng tính chất tranh tụng. Một số Kiểm sát viên nhận thức không đầy đủ về chức năng, vai trò của mình tại phiên tòa cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tranh luận, đối đáp với bên bào chữa. Nhiều quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo của người bào chữa không được ghi nhận trong bản án hoặc bị bác bỏ mà không đưa ra cơ sở pháp lý vững chắc khiến cho tình trạng Kiểm sát viên "giữ nguyên quan điểm truy tố" mà không nêu lý do không đồng ý hay có đối đáp phù hợp với người bào chữa.

Thứ ba là những hạn chế đến từ phía người bào chữa.

Theo phản ánh của các cơ quan tố tụng thì có nhiều trường hợp luật sư tham gia bào chữa tìm mọi cách kể cả bất hợp pháp để làm nhẹ tội cho thân chủ của mình. Một số luật sư còn yếu về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp chưa cao nên nhiều vụ án có người bào chữa tham gia nhưng không phát hiện được các sai sót rõ ràng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc khả năng tranh tụng còn yếu kém. Hoặc có vụ án người bào chữa không tham gia hỏi cung bị can trong giai đoạn điều tra nhưng vẫn ký vào biên bản lấy lời khai để hợp thức hóa hồ sơ cùng với cơ quan điều tra.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa, vẫn còn những trường hợp người bào chữa chỉ thực hiện một cách qua loa, đại khái, nhất là trong các trường hợp bào chữa chỉ định. Thậm chí có những trường hợp, người bào chữa không tham gia tố tụng tại phiên tòa mà chỉ gửi bài bào chữa đến tòa và đưa ra quan điểm bào chữa dựa trên những tài liệu có trong hồ sơ.

Trình độ, chuyên môn của trợ giúp viên pháp lí hay bào chữa viên nhân dân còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả bào chữa của công tác trợ giúp pháp lí khiến cho số người được hưởng lợi từ hoạt động này còn rất khiêm tốn so với nhu cầu thực tế.

Thứ tư là hạn chế đến từ phía người bị buộc tội, bị hại, đương sự.

Có thể thấy, người bị buộc tội, bị hại, đương sự phần lớn trình độ hiểu biết pháp luật còn thấp, không nắm rõ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ đó dẫn đến việc người bị buộc tội thiếu tính chủ động trong việc bào chữa và nhờ người khác bào chữa, đồng thời thường có tâm lí lo sợ, không dám tự bào chữa hoặc muốn tìm người bào chữa nhưng không đủ khả năng chi trả tiền thuê người bào chữa. Hoặc bị hại, đương sự bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vi phạm quyền và lợi ích nghiêm trọng nhưng do thiếu hiểu biết nên đã để quyền lợi của mình bị xâm phạm. Pháp luật lại chưa có những quy định chi tiết về trách nhiệm, chế tài xử lý đối với trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vi phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị hại, đương sự.

2. Điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự".

Để việc thực hiện nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" trên thực tế đúng với quy định pháp luật và đạt được hiệu quả tốt nhất, thì cần phải có những điều kiện đảm bảo nhất định cho việc thực hiện đó. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là điều kiện đảm bảo liên quan đến quy định của pháp luật. Theo đó, pháp luật hiện nay cần phải có những thay đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa về quyền bào chữa của người bị buộc tội và việc bảo vệ lợi ích của bị hại, đương sự. Như là cần quy định rõ khoảng "thời gian hợp lí" tại khoản 1 Điều 79 BLTTHS năm 2015: "Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này" cụ thể là bao nhiêu thời gian. Nhằm tránh trường hợp tồn tại nhiều quan điểm khác nhau dẫn đến việc có những trường hợp chỉ báo trước một khoảng thời gian ngắn, gây khó khăn cho người bào chữa. Cũng cần phải quy định rõ hơn các biện pháp, chế tài đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có hành vi làm trái quy định pháp luật hoặc cản trở việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.

Thứ hai là điều kiện đảm bảo liên quan đến các cơ quan, người cơ thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nguyên tắc "quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" sẽ không thể được đảm bảo nếu cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cần phải nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm và năng lực chuyên môn cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời giáo dục thường xuyên về mặt nhận thức việc họ phải luôn tôn trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng như người bị buộc tội, bị hại, đương sự.

Thứ ba là điều kiện đảm bảo liên quan đến người bào chữa. Để đảm bảo cho nguyên tắc trên thực hiện tốt, người bào chữa luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Theo đó, cần phải củng cố, kiện toàn, phát triển đội ngũ luật sư trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng và quan trọng là phải có sự phân bố đều giữa các tỉnh, thành phố. Phát triển và nâng cao trình độ, kỹ năng hành nghề pháp luật cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, dân tộc thiểu số cao, trình độ dân trí thấp. Người bào chữa cũng cần phải rèn luyện cho mình bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và lương tâm nghề nghiệp trong sáng. Ngoài ra cần xem xét tăng thù lao cho người bào chữa trong trường hợp được chỉ định bào chữa để thu hút những người có trình độ, năng lực, giúp họ toàn tâm toàn ý thực hiện tốt nhiệm vụ bào chữa của mình.

Thứ tư là điều kiện đảm bảo liên quan đến người bị buộc tội, bị hại, đương sự nói riêng mà toàn thể người dân nói chung. Điều quan trọng đầu tiên là cần nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, tăng cường công tác giáo dục và phổ biến pháp luật. Qua đó giúp người dân tự ý thức được việc tuân thủ pháp luật cũng như tầm quan trọng của việc bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của bản thân. Đối với người bị buộc tội, bị hại, đương sự thì phải đảm bảo chắc chắn việc họ luôn nắm rõ các quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình tố tụng, được giải thích, hướng dẫn kịp thời các quy định mà họ chưa hiểu. Trong những trường hợp quyền lợi bị xâm phạm, không được đảm bảo thì người bị buộc tội, bị hại, đương sự cần mạnh dạn lên tiếng, tố cáo để có những biện pháp xử lý, ngăn chặn, tránh những trường hợp "sợ hãi" trước cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không dám đòi lại quyền lợi chính đáng của bản thân.

Thứ năm là điều kiện đảm bảo về cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc. Cần tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện giám sát thông qua việc giới thiệu Hội thẩm nhân dân, cử bào chữa viên nhân dân. Xây dựng được cơ chế giám sát cụ thể hơn nữa để phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp nói chung và trong việc thực hiện quyền của người bị buộc tội, bị hại, đương sự nói riêng. Với sự phát triển của công nghệ hiện nay, các phương tiện thông tin truyền thông cũng có thể góp phần giám sát gián tiếp thông qua việc chủ động đưa tin, làm sáng tỏ những sai phạm, thiếu sót trong quá trình tố tụng.

Tóm lại, có thể thấy, "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" là một trong những nguyên tắc cơ bản và có ý nghĩa, tầm quan trong to lớn trong tố tụng hình sự. Nội dung của nguyên tắc đã được ghi nhận và quy định trong Hiến pháp cũng như trong các văn bản pháp luật của nước ta. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Do đó, cần phải có những giải pháp khắc phục tình trạng trên thông qua việc đảm bảo các điều kiện thực hiện nguyên tắc trên thực tế. Việc coi trọng và thực hiện đúng đắn nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời giải quyết các vụ án hình sự được công bằng, khách quan, nâng cao niềm tin của người đối với cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động tố tụng hình sự nói riêng.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Báo cáo tổng kết năm của TAND thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018.

[2] Tạ Hồng Lê, Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, Hà Nội, 2019.

Các tin khác