1. Quy định về giải thích hợp đồng:
Đầu tiên, chúng ta sẽ nghiên cứu những quy định về “giải thích hợp đồng” trong BLDS 2015. Khoản 6, điều 404 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia” và khoản 2, Điều 405 quy định: “Trường hợp hợp đồng mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”. Hai quy định nêu trên đều có mục đích nhằm bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự trước những điều khoản bất lợi, tuy nhiên lại có những cách giải quyết khác nhau. Phân tích hai quy định trên có thể nhận thấy chúng tồn tại rất nhiều bất cập cả về kỹ thuật lập pháp lẫn khả năng áp dụng thực tế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc quy định hai điều khoản có phạm vi áp dụng trùng lặp, song lại có hướng giải quyết khác nhau gây ra sự bối rối khi áp dụng hai điều luật 404 và 405 BLDS 2015, cụ thể Điều 405 được áp dụng riêng đối với hợp đồng mẫu, đưa ra hướng bảo vệ bên yếu thế trước những điều khoản bất lợi là: giải thích theo hướng bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng. Trong khi đó, Điều 404 dường như có phạm vi áp dụng trùng lặp với Điều 405 khi áp dụng với những hợp đồng do một bên soạn thảo (có thể hiểu hợp đồng này là hợp đồng mẫu hoặc hợp đồng với các điều khoản do các bên thỏa thuận nhưng do một bên soạn thảo), tuy nhiên lại có hướng giải quyết là: giải thích theo hướng có lợi cho bên chấp thuận hợp đồng. Có thể thấy, mối quan hệ giữa khoản 6, Điều 404 và khoản 2, Điều 405 là quy định chung và quy định cụ thể. Theo nguyên tắc, quy định cụ thể không được trái với quy định chung, song Điều 405 lại đưa ra một cách giải quyết có phần trái ngược với Điều 404, bởi lẽ việc giải thích theo hướng bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng và giải thích theo hướng có lợi cho bên chấp nhận hợp đồng là không đồng nhất. Để làm rõ luận điểm trên, trước hết cần hiểu rõ thế nào là bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng và thế nào là có lợi cho bên chấp thuận hợp đồng. Bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng có thể hiểu là giảm bớt lợi ích của bên đưa ra hợp đồng, khiến cho lợi ích mà bên đưa ra hợp đồng nhận được thấp hơn giá trị ban đầu mà hợp đồng đem lại (tức là điều chỉnh giá trị hợp đồng xuống thấp hơn giá trị ban đầu). Có lợi cho bên chấp thuận hợp đồng được hiểu là bảo đảm quyền lợi chính đáng mà bên chấp thuận hợp đồng có quyền mong đợi từ hợp đồng (tức là điều chỉnh giá trị hợp đồng về mức trung bình), hoặc cho phép bên chấp thuận hợp đồng được hưởng điều kiện có lợi nhất (tức là đưa giá trị hợp đồng về mức thấp nhất). Để minh họa cho cách hiểu trên, nhóm tác giả xin đưa ra ví dụ như sau: Một hàng hóa theo hợp đồng được bán với giá 1 triệu đồng, mức giá trung bình của mặt hàng trên thị trường là 500 ngàn đồng. Khi xảy ra tranh chấp giữa bên đưa ra hợp đồng (người bán) và bên chấp thuận hợp đồng (người mua) về điều khoản về giá, người mua nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Lúc này, nếu Tòa án đưa ra phán quyết hàng hóa được bán với giá thấp hơn giá trị ban đầu quy định trong hợp đồng là 1 triệu đồng thì mức giá này sẽ bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng còn nếu hàng hóa được bán với giá bằng hoặc thấp hơn 500 ngàn đồng thì mức giá này sẽ có lợi bên chấp thuận hợp đồng. Có thể thấy, nếu hàng hóa được bán với mức giá nhỏ hơn hoặc bằng 500 ngàn đồng thì khi đó, mức giá được xem bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng, đồng thời có lợi bên chấp thuận hợp đồng. Tuy nhiên, nếu hàng hóa được bán với mức giá trên 500 ngàn đồng và dưới 1 triệu đồng thì khi đó, mức giá này là bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng nhưng cũng không có lợi cho bên chấp thuận hợp đồng. Từ ví dụ trên có thể thấy rằng không phải lúc nào việc giải thích bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng cũng đem lại kết quả có lợi cho bên chấp thuận hợp đồng và những ví dụ như trên rất có thể sẽ xảy ra trên thực tế. Như vậy, trong các trường hợp đó, việc giải thích điều khoản đó sẽ áp dụng Điều 404 BLDS hay Điều 405? Đây là vấn đề vẫn bị bỏ ngỏ và chưa có quy định pháp luật cụ thể, dẫn tới việc giải thích và áp dụng các điều luật không thống nhất.
Thứ hai, việc xác định thế nào là “nội dung bất lợi cho phía bên kia” tại khoản 6, Điều 404 là không đơn giản. Bởi vì việc đánh giá nội dung bất lợi cho một bên trong hợp đồng là rất khó, tiêu chí nội dung bất lợi cho bên kia mà BLDS sử dụng rất chung chung và mang tính chủ quan. Khi một tiêu chí được đưa ra chỉ mang tính chất định tính mà không mang tính chất định lượng thì việc vận dụng phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của chủ thể đánh giá. Câu hỏi đặt ra khi áp dụng điều luật này thì sự bất lợi thể hiện ở khía cạnh nào: đó là sự mất cân xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch hay sự bất lợi về địa vị kinh tế hay là một yếu tố nào khác? Đáng tiếc rằng cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản dưới luật nào làm rõ, xác định những yếu tố cấu thành “nội dung bất lợi” trong quy định tại khoản 6, điều 404 BLDS. Do đó, Tòa án khi áp dụng điều luật để tiến hành giải quyết vụ việc phải đưa ra những giải thích, “suy đoán” của riêng mình về điều luật và nhiều khi những lý giải của Tòa án trong các vụ án khác nhau lại khác nhau, khiến cho việc áp dụng điều luật trên thực tế trở nên thiếu nhất quán.
Thứ ba, khó có thể xác định thế nào là “điều khoản không rõ ràng” theo quy định tại khoản 2, Điều 405. Yếu tố “không rõ ràng” được hiểu là không rõ ràng về hình thức trình bày điều khoản hay không rõ ràng về khía cạnh nội dung điều khoản như: cách thức sử dụng từ ngữ gây khó hiểu, điều khoản có những nội dung mang tính chuyên môn khó hiểu, v.v. Do có nhiều cách hiểu khác nhau nên việc làm rõ thế nào là “điều khoản không rõ ràng” cần được các văn bản dưới luật làm rõ, song cho đến nay vẫn chưa có một văn bản dưới luật nào giải thích thế nào là “điều khoản không rõ ràng”.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng những quy định về giải thích hợp đồng mẫu trong BLDS 2015 là chưa đủ mạnh để bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự, bởi lẽ tính khả thi của những điều luật này lại không cao, hơn nữa là giải pháp khắc phục: “Giải thích theo hướng có lợi cho bên yếu thế” chưa thực sự là cơ chế hữu hiệu để có thể bảo đảm được quyền và lợi ích của bên yếu thế trong các giao dịch không công bằng.
3.1.2. Quy định về kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung:
Tiếp theo, khi nhắc đến pháp luật bảo vệ bên yếu thế, không thể thiếu những quy định nhằm kiểm soát hợp đồng mẫu có tính chất bất công. Hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung là hai khái niệm được quy định trong cả BLDS 2015 và Luật BVQLNTD 2010, tuy nhiên với nội hàm khác nhau. Cụ thể, khoản 1, Điều 405 BLDS định nghĩa hợp đồng mẫu là: “hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra”, trong khi đó, khoản 5, Điều 3 Luật BVQLNTD 2010 lại định nghĩa như sau: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng”. Khoản 1, Điều 406 BLDS 2015 định nghĩa điều kiện giao dịch chung là: “những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này”, trong khi đó, khoản 6, Điều 3 Luật BVQLNTD định nghĩa: “Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng”. Việc quy định không nhất quán định nghĩa “điều kiện giao dịch chung” và “hợp đồng mẫu” khiến việc áp dụng những quy định pháp luật để điều chỉnh chúng sẽ gặp nhiều khó khăn. Chưa kể, những định nghĩa được nêu trong cả hai văn bản luật vẫn chưa phản ánh được chính xác bản chất của điều kiện thương mại chung và hợp đồng mẫu.[1]
Cơ chế kiểm soát điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu được quy định tại BLDS 2015, Luật BVQLNTD 2010 và một số văn bản dưới luật. Trước hết về cơ chế kiểm soát hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung trong BLDS, khoản 3, Điều 405 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Khoản 3, Điều 406 quy định: “Điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Về cơ chế kiểm soát điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, Điều 16 Luật BVQLNTD 2010 đưa ra một danh mục trong đó liệt kê chín loại điều khoản hợp đồng sẽ không có hiệu lực với người tiêu dùng nếu được đưa vào hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung (black list). Có phân loại các điều khoản đó vào ba nhóm như sau:[2]
Nhóm thứ nhất bao gồm các điều khoản cho phép loại trừ hoặc giới hạn trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng:
Điều 16.1(a) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật;
Điều 16.1(b) Hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;
Điều 16.1(g) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua bên thứ ba.
Nhóm thứ hai bao gồm các điều khoản trao cho thương nhân quyền đơn phương quyết định:
Điều 16.1(c) cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thỏa thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện cụ thể trong hợp đồng;
Điều 16.1(d) cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương xác định người tiêu dùng không thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ;
Điều 16.1(đ) cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định hoặc thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
Điều 16.1(e) cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giải thích hợp đồng trong trường hợp điều khoản của hợp đồng được hiểu khác nhau;
Điều 16.1(i) cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý
Nhóm thứ ba bao gồm các điều khoản ngăn cản các bên được hưởng quyền tương xứng:
Điều 16.1(h) bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Có thể thấy, cơ chế kiểm soát điều kiện giao dịch chung của Điều 16 Luật BVQLNTD khá tương đồng với Điều 309 BLDS Đức, Điều R.212-1 đạo luật Người tiêu dùng Pháp và Phụ lục 3 UTCC 1994 của Anh. Cơ chế kiểm soát của Điều 16 có lợi thế là đơn giản, dễ dàng kiểm soát được các điều kiện giao dịch chung không công bằng mà không cần sự can thiệp của cơ quan hành chính hay Tòa án. Tuy nhiên, khác với quy định của các quốc gia trên thế giới, danh mục những điều kiện giao dịch chung không có hiệu lực được xác định tại Điều 16 Luật BVQLNTD 2010 không dựa trên bất kỳ tiêu chí nào, ngoài ra danh mục cũng là một danh sách đóng (exhaustive list) khiến cho điều luật không có tính khái quát và dễ trở nên lạc hậu khi xuất hiện các dạng thức mới của điều khoản bất công trên thị trường. Do đó, trường hợp xuất hiện các điều kiện giao dịch chung mới bất công thái quá với người tiêu dùng mà pháp luật chưa kịp thời cập nhật thì các cơ quan hành chính cũng như Tòa án sẽ không có cơ sở pháp lý để kiểm soát điều khoản đó. Đây là một hạn chế lớn, bởi lẽ Việt Nam là một nước theo hệ thống Civil Law và thẩm phán chỉ xét xử dựa vào các quy định pháp luật mà không có quyền giải thích luật, do đó trong trường hợp xuất hiện điều khoản bất công không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 16 thì thẩm phán sẽ không có quyền tuyên bố điều khoản đó vô hiệu và như vậy sẽ không thể bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng yếu thế.
Ngoài những quy định tại Điều 16 Luật BVQLNTD 2010, pháp luật Việt Nam còn kiểm soát điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu thông qua cơ chế đăng ký điều kiện giao dịch chung, hợp đồng mẫu. Theo quy định tại Quyết định 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/1/2012 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản sửa đổi, bổ sung (Quyết định 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 02/QĐ-TTg; Quyết định 38/2018/QĐ –TTg ngày 05 tháng 9 năm 2018 sửa đổi, Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg; Quyết định định số 25/2019/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2019 sửa đổi Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg), có 9 loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải thực hiện đăng ký hợp đồng mẫu bao gồm: (1) Cung cấp điện sinh hoạt; (2) Cung cấp nước sinh hoạt; (3) truyền hình trả tiền; (4) dịch vụ điện thoại cố định mặt đất; (5) dịch vụ thông tin di động mặt đất; (6) dịch vụ truy cập Internet; (7) vận chuyển hành khách đường hàng không; (8) vận chuyển hành khách đường sắt; (9) mua bán căn hộ chung cư, các dịch vụ sinh hoạt do đơn vị quản lý chung cư cung cấp. Trong trường hợp không chấp nhận đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi văn bản trả lời cho tổ chức, cá nhân kinh doanh trong đó nói rõ lý do không chấp nhận. Sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký, hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung được công bố công khai và lưu trữ trên trang thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận đăng ký.[3] Bên cạnh đó, Điều 15 Nghị định 99/2011/NĐ-CP cũng quy định về việc đăng ký lại hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung trong trường hợp sau: a) Khi pháp luật thay đổi làm thay đổi nội dung của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh thay đổi nội dung của hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung. Thủ tục đăng ký lại hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung được thực hiện như đăng ký lần đầu. Tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thông báo cho NTD về việc thay đổi hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung sau khi hoàn thành việc đăng ký lại. Đối với những hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung thuộc các lĩnh vực nằm ngoài phạm vi phải đăng ký thì các cơ quan như: Sở Công Thương và Bộ Công Thương có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh phải sửa đổi, hủy bỏ nội dung vi phạm đó.[4]
Có thể thấy sự ra đời của cơ chế đăng ký hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung đã tạo tiền đề cho việc bảo vệ người tiêu dùng yếu thế cũng như bên yếu thế nói chung trước những hợp đồng bất bình đẳng mà họ không có điều kiện để thương lượng các điều khoản hợp đồng. Ngoài ra, đây cũng là cơ chế bảo vệ kép khi cho phép cơ quan nhà nước kiểm soát nội dung của hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi được áp dụng với người tiêu dùng, đồng thời niêm yết công khai mọi nội dung, điều khoản của hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung để người tiêu dùng có thể tiếp cận, tìm hiểu những điều khoản của hợp đồng mẫu cũng như theo dõi sự thay đổi trong nội dung của hợp đồng mẫu. Trong quá trình tìm hiểu hợp đồng mẫu, nếu phát hiện những điều khoản bất hợp lý, người tiêu dùng có quyền khiếu nại những nội dung đó với cơ quan quản lý hợp đồng mẫu. Mặc dù được đánh giá là một bước tiến bộ của pháp luật Việt Nam về bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự, đặc biệt là người tiêu dùng yếu thế trước nguy cơ bị xâm hại bởi các điều kiện, điều khoản hợp đồng bất lợi do bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ đưa ra, song những quy định về đăng ký hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung vẫn tồn tại nhiều hạn chế:
Thứ nhất, nhà làm luật đã ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng mẫu sẽ dẫn đến sự liệt kê không đầy đủ, thể hiện tính thiếu công bằng trong đánh giá các hàng hóa, dịch vụ, tạo nên sự phản ứng từ phía doanh nghiệp cùng cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng. Mặt khác, pháp luật cũng chưa có các quy định hợp lý, chặt chẽ về trình tự, thủ tục thực hiện việc đăng ký, dẫn đến tình trạng tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, dễ phát sinh tham nhũng và không phát huy được hiệu quả của việc bảo vệ quyền lợi NTD.[5] Ngoài ra, bên cạnh 09 loại hàng hóa, dịch vụ được xem là thiết yếu và phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký điều kiện giao dịch chung, hợp đồng mẫu vẫn còn rất nhiều những hàng hóa, dịch vụ khác không thể thiếu đối với đời sống hàng ngày những không được các nhà lập pháp đưa vào danh mục này như dịch vụ y tế, mua bán lương thực thực phẩm, v.v. Không chỉ vậy, trong số 9 loại hàng hóa, dịch vụ được quy định, không phải mặt hàng nào cũng là phổ biến và người tiêu dùng sử dụng thường xuyên (ví dụ như vận chuyển hành khách đường sắt), trong khi đó, những dịch vụ thường xuyên được sử dụng trong đời sống hàng ngày và ẩn chứa nhiều nguy cơ tạo ra những giao dịch không công bằng như sàn giao dịch thương mại điện tử lại không nằm trong danh mục kiểm soát.
Thứ hai, trong danh mục những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cần phải đăng ký điều kiện thương mại chung, hợp đồng mẫu, có những mặt hàng do các doanh nghiệp có vốn nhà nước (các công ty cung cấp điện, nước, truyền hình, viễn thông, internet, hàng không, đường sắt), như vậy, nếu xem xét nhà nước cũng là một chủ thể đặc biệt trong quan hệ hợp đồng, chủ thể có đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế là người tiêu dùng, nếu quyền lợi này trong một số trường hợp sẽ đối kháng với quyền lợi của chính mình?[6]
Thứ ba, mặc dù các quy định về cơ chế đăng ký hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung là công cụ hữu hiệu để bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay, thông tin từ phía các cơ quan quản lý cho thấy số lượng hồ sơ đăng ký còn rất khiêm tốn và việc theo dõi các nội dung đăng ký chưa thực sự rõ ràng. Theo Báo cáo thường niên năm 2020 của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, trong năm 2020, Cục đã tiếp nhận 205 hồ sơ đăng ký Hợp đồng mẫu/Điều kiện giao dịch chung, trong đó chỉ có 73 hồ sơ được chấp nhận, chiếm 36% tỷ lệ.[7] Tính tới thời điểm thực hiện nghiên cứu (tháng 3 năm 2022), số lượng hồ sơ được lưu trên website của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng là 309 hồ sơ.[8] Từ những số liệu trên, có thể thấy tỷ lệ hồ sơ đăng ký hợp lệ ở mức thấp, điều này chứng tỏ cơ chế đăng ký còn tồn tại nhiều bất cập. Ngoài ra, kể từ khi áp dụng cơ chế đăng ký (năm 2014) đến nay, số lượng hồ sơ đăng ký mới chỉ có 309 hồ sơ, thấp hơn nhiều so với nhu cầu quản lý, kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung.
Ngoài những quy định về cơ chế đăng ký hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung và danh mục điều kiện giao dịch chung vô hiệu thì pháp luật Việt Nam còn kiểm soát hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung thông qua các quy định về nghĩa vụ của thương nhân khi sử dụng hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung. Cụ thể, khoản 1 Điều 17 Luật BVQLNTD 2010 quy định: “Khi giao kết hợp đồng theo mẫu, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải dành thời gian hợp lý để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng”; Điều 18 Luật BVQLNTD 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng điều kiện giao dịch chung có trách nhiệm thông báo công khai điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch với người tiêu dùng; Điều kiện giao dịch chung phải xác định rõ thời điểm áp dụng và phải được niêm yết ở nơi thuận lợi tại thời điểm giao dịch để người tiêu dùng có thể thấy.”
Bên cạnh những quy định của BLDS 2015 và Luật BVQLNTD 2010 và các văn bản hướng dẫn, bên yếu thế trong giao dịch dân sự còn được bảo vệ thông qua những văn bản trong từng lĩnh vực cụ thể như: Luật Quảng cáo, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật An toàn thực phẩm, v.v. Ngoài ra, bên yếu thế còn được bảo vệ một cách gián tiếp thông qua những quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với những chủ thể kinh doanh vi phạm nghĩa vụ đối với người tiêu dùng hoặc lạm dụng như: Nghị định 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Có thể thấy, pháp luật bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự của Việt Nam khá đa dạng, bao gồm nhiều chế định khác nhau, tuy nhiên còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Để đánh giá khả năng áp dụng của các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ bên yếu thế trong giao dịch dân sự, phần tiếp theo nhóm tác giả sẽ nghiên cứu về thực trạng bảo vệ bên yếu thế tại trong một số loại giao dịch cụ thể tại Việt Nam.
Trần Đức Minh - Công ty Luật TNHH H&M
[1] Hà Thị Thúy (2017), “Giải thích hợp đồng theo mẫu, Điều kiện giao dịch chung – Một số điểm bất cập và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Luật học số 10/2017, tr. 51 – 52.
[2] Đỗ Giang Nam (2020), “Từ công bằng thủ tục đến công bằng nội dung: Thành tựu và thách thức của chế định kiểm soát điều khoản mẫu trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, link: http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210538/Tu-cong-bang-thu-tuc-den-cong-bang-noi-dung--Thanh-tuu-va-thach-thuc-cua-che-dinh-kiem-soat-dieu-khoan-mau-trong-phap-luat-Viet-Nam.html
[3] Điều 14 Nghị định 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
[4] Khoản 1, Điều 16, Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
[5] Nguyễn Thị Hằng Nga (2012), “Một số bất cập của pháp luật về đăng ký hợp đồng mẫu, điều kiện giao dịch chung”, Tạp chí Nghề Luật, Số 4/2012, trang 21.
[6] Xem chú thích số (1), trang 55.
[7] Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (2020), Báo cáo thường niên 2020.
[8] Số liệu từ website của Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng.
Xem: http://hdm.vcca.gov.vn/?page=hdm truy cập 20h ngày 12/03/2022.