0240.73088281
Logo

Phân tích và đánh giá quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại, là một trong những chế định quan trọng của luật dân sự. Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, thỏa mãn các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật, thì về nguyên tắc, chúng ta sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo các nguyên tắc chung. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất đa dạng, tính đa dạng này thể hiện ở chủ thể gây thiệt hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh gây thiệt hại… nên BLDS có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể. Trong đó không thể không kể đến trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trong giới tự nhiên, có những vật luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh mà bản thân con người rất khó kiểm soát. Tự bản thân nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra mối nguy hiểm cho những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối khả năng gây thiệt hại. BLDS đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ là một "loại trách nhiệm dân sự nâng cao". Vậy các quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này như thế nào và còn tồn tại những bất cập gì cần được khắc phục trong chính các quy định đó?

I. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

1. Khái niệm

1.1.  Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.

Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định tại khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 với nội dung như sau: "Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện gia thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định". Điều luật trên không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ theo tính chất, đặc điểm mà quy định theo phương thức liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Nhưng qua quy định trên, chúng ta có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ là những tài sản tiềm ẩn nguy cơ lớn gây ra thiệt hại cho người và tài sản mà con người không hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại[1]. Theo đó, nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm:

- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức về phương tiện vân tải cơ giới trong pháp luật Việt Nam. Tại khoản 18 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định: "Phương tiện giao thông vân tải cơ giới đường bộ gồm: xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự kể cả xa cơ giới dành cho người tàn tật…". Như vậy, ngoài phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ còn có phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường sắt gồm đầu máy, toa xe, toa xe động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt (khoản 20 Điều 3 Luật đường sắt 2005); đường thủy gồm tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác (khoản 7 Điều 3 Luật giao thông đường thủy nội địa 2004); đường hàng không gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị bay khác (khoản 1 Điều 13 Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006).

- Hệ thống tải điện: được hiểu là một cấu trúc được thiết kế, lắp đặt hoàn chỉnh giữa máy biến áp và đường dây tải điện cùng với một số thiết bị khác nhằm cung cấp điện đến nơi tiêu thụ.

- Nhà máy công nghiệp: là nơi lắp đặt các máy móc, trang thiết bị nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 601 BLDS thì không phải phương tiện giao thông

vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp nào cũng là nguồn nguy hiểm cao độ, các đối tượng này chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi đang hoạt động. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới được coi là hoạt động khi đang di chuyển trên đường bằng động cơ của chính phương tiện đó hoặc không di chuyển nhưng động cơ của phương tiện lại đang ở chế độ mở. Đối với hệ thống tải điện thì phải có dòng điện chạy qua mới được coi là đang hoạt động. Còn nhà máy công nghiệp đang hoạt động tức là nhà máy đang trong quá trình vận hành sản xuất. Trường hợp những đối tượng trên đang không hoạt động, tức là đang ở trạng thái tĩnh thì không được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.

- Vũ khí: là những phương tiện được sử dụng với mục đích sát thương nhanh. Vũ khí thường được sử dụng trong chiến tranh, dạp bạo loạn, truy bắt tội phạm…bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn…(khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ).

- Chất nổ: là những chất có tính chất dễ phát nổ với mức độ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng như thuốc nổ, thuốc pháo, thuốc súng…

- Chất cháy: được hiểu là những chất tồn tại dưới dạng khí, lỏng, rắn có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ô xy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của nhiệt như phốt pho, xăng, dầu, cồn, ga…

- Chất độc: là những chất khi thâm nhập và cơ thể con người, độc thực vật hay môi trường tự nhiên gây ra những phản ứng nguy hiểm do đặc tính độc tố của những chất đó.

- Chất phóng xạ: là chất ở thế rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng lớn hơn 70KBO/KG[2]. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.

- Thú dữ: là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất dữ, có thể là hại người như hổ, báo, sư tử…

Ngoài những nguồn nguy hiểm cao độ được liệt kê ở trên còn có những "nguồn nguy hiểm cao độ khác" do pháp luật quy định.

Xuất phát từ đặc điểm nguồn nguy hiểm cao độ là luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại nên BLDS quy định: "Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật". 

1.2.  Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi[3].

2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2.1. Có thiệt hại xảy ra.

Có thiệt hại xảy ra là một trong những tiền đề đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có tài sản, tính mạng, sức khỏe chứ không có thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Vì danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền với mỗi chủ thể nên chỉ có thể bị xâm phạm bởi con người. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ áp dụng khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho "người xung quanh". "Người xung quanh" được hiểu là những người khi xảy ra thiệt hại, không phải là chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Nếu tài sản gây thiệt hại cho chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Trường hợp tài sản gây thiệt hại cho người chiếm hữu, sử dụng tài sản theo nghĩa vụ lao động thì họ có thể được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Nếu thiệt hại gây ra cho người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng theo hợp đồng, việc có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hay không còn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên cũng như các quy định khác của pháp luật.

2.2.  Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ.

Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chứ không phải do hành vi của con người tác động vào nguồn nguy hiểm cao độ làm cho nguồn nguy hiểm cao gây thiệt hại. Đồng thời, sự kiện gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Pháp luật hiện hành mới chỉ có quy định về “hành vi trái pháp luật” của con người mà chưa có quy định về tính trái pháp luật khi tài sản nói chung và nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng gây thiệt hại. Theo tinh thần của pháp luật nói chung và BLDS nói riêng, mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, tài sản . Vì vậy, về nguyên tắc, việc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép) bị coi là trái pháp luật.

2.3.  Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại xảy ra.

Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại là kết quả của sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

2.4.  Yếu tố lỗi trong bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ

gây ra chỉ cần thoả mãn các điều kiện trên, điều kiện về lỗi không có ý nghĩa đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thậm chí kể cả khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật qui định (Khoản 3 Điều 601 BLDS). Điểm a khoản 3 Điều 601 BLDS quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được loại trừ trong trường hợp “thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại”. Quy định như vậy được hiểu là nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phát sinh. Ngoài ra, lỗi của chủ sở hữu, người chiếm hữu trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản (trong đó có nguồn nguy hiểm cao độ) gây ra chỉ có thể là lỗi vô ý. Chủ thể này đã không nhìn thấy trước nguy cơ tài sản có thể gây thiệt hại - điều mà những người chu đáo, cẩn thận sẽ nhận thấy được trong hoàn cảnh tương tự. Thiệt hại phát sinh khi chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã không thực hiện sự quan tâm, chu đáo cần thiết khi thực hiện nghĩa vụ quản lý tài sản.

3. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Những chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại khoản 2 Điều 601 BLDS: "Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác" và khoản 4 Điều 601 BLDS: "4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại". Cụ thể các chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: 

Thứ nhất là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ: nếu nguồn nguy hiểm cao

độ gây thiệt hại cho người khác khi chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ[4].

Thứ hai là người chiếm hữu, người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ: Người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể là người chiếm hữu ngay tình hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng thông qua những giao dịch như gửi giữ, cho thuê, cho mượn… và người thuê, người mượn, đang khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ hoặc người chiếm hữu đang trực tiếp quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, cho nên khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì những người này có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Thứ ba là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật: Nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.

4. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là những trường hợp có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Có hai trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại khoản 3 Điều 601 BLDS:

"3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:

a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.".
Cụ thể như sau:

Thứ nhất, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại: Lỗi cố ý của người bị thiệt hại được hiểu là người bị thiệt hại nhận thức rõ được hành vi của mình gây thiệt hại cho mình nhưng vẫn mong muốn thiệt hại đó xảy ra. Việc pháp luật quy định không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lí. Bởi lẽ trong trường hợp này người bị thiệt hại hoàn toàn có khả năng nhận thức về việc hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho chính bản thân mình trong khi họ có thể thực hiện hành vi khác để không thiệt hại, họ mong muốn có thiệt hại xảy ra và sẽ có những hành vi nhất định để đạt được mong muốn đó.

Thứ hai, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác: Thiệt hại xảy ra trong trường hợp này phải thỏa mãn điều kiện là thiệt xảy ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa, nếu vượt quá thì người gây ra thiệt hại vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường phần vượt quá. Trong trường hợp này có thể hiểu thiệt hại xảy ra do lỗi của người gây ra tình thế cấp thiết, tuy người gây ra tình thế cấp thiết không phải người trực tiếp gây ra tổn thất cho người bị thiệt hại nhưng là người đã tạo ra các nguy cơ đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác do đó phải là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Còn nếu nguy cơ gây thiệt không phải do hành vi của con người mà do thiên nhiên gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tình thế cấp thiết không đặt ra và người bị thiệt hại phải chấp nhận gánh chịu rủi ro.

II. Đánh giá quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Về cơ bản, trong thời gian qua những quy định cụ thể của BLDS, các Nghị quyết hướng dẫn về chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã đáp ứng được tình hình chung của công tác áp dụng pháp luật, đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhận định hướng giải quyết rõ ràng, đúng pháp luật. Tuy nhiên vẫn còn một số những bất cập, vướng mắc trong các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn vẫn còn quy định chung chung, chưa cụ thể, chi tiết, rõ ràng gây ra những tranh cãi, quan điểm khác nhau trên thực tế áp dụng.

Thứ nhất là về khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ. Tại khoản 1 Điều 601 BLDS đưa ra khái niệm bằng cách liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Việc quy định như trên sẽ không thể bao quát được đầy đủ, thậm chí có thể không thống nhất với các văn bản pháp luật khác.  Trong thực tế có những sự vật có đầy đủ tính chất của nguồn nguy hiểm cao độ nhưng chưa được pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao độ. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật thì thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự quản lý của một chủ thể nhất định, nếu không có sự quản lí mà chỉ ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên hoang dã thì trách nhiệm bồi thường không phát sinh, mặc dù tài sản này thuộc sở hữu của Nhà nước. Đây cũng được xem là một bất cập trong các qui định của pháp luật, qua đó đặt ra vấn đề đối với nhà nước là cần phải có những biện pháp hợp lý hơn trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên để bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Đồng thời cũng chưa có các quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…

Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Thứ ba, theo quy định của pháp luật hiện hành thì mới chỉ dự liệu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ thông qua các giao dịch như thuê, mượn, cầm cố, thế chấp mà chưa mà dự liệu khi chủ sở hữu giao kết hợp đồng mua bán nhưng người mua mặc dù chưa hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ và gây thiệt hại thì lúc này trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bên mua hay bên bán.

Thứ tư, trong thực tế còn xảy ra trường hợp thiệt hại xảy ra vừa do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra vừa do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai cũng chưa được pháp luật quy định.

Do đó, để có thể hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về vấn đề này cần phải đưa ra những phương hướng khắc phục cụ thể như:

Thứ nhất, cần đưa ra quy định cụ thể để xác định nguồn nguy hiểm cao độ là gì, tránh tình trạng quy định nguồn nguy hiểm cao độ dưới dạng liệt kê như hiện nay sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cần xác định các tiêu chí chung như thế nào được coi là nguồn nguy hiểm cao độ như mức độ nguy hiểm, khả năng kiểm soát của con người với sự vật, quy định của pháp luật liên quan đến việc trông, giữ, sử dụng…

Thứ hai, cần phải quy định cụ thể điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải thỏa mãn hai dấu hiệu đó là thiệt hại phải do chính hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, không phải do hành vi của con người và nguồn nguy hiểm cao độ khi gây thiệt hại phải đang trong trạng thái vận hành, hoạt động.

Thứ ba, cần bổ sung thêm quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra. Quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác quản lý, sử dụng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cơ quan, tổ chức mà Nhà nước giao quyền quản lý, sử dụng, khai thác tài sản. Qua đó nhằm nâng cao ý thức trong việc quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp này.

Bên cạnh đó, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật thì cũng cần phải nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật trên thực tiễn như:

Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cụ thể cả về số lượng và chất lượng của thẩm phán, kiểm sát viên; ngoài ra cũng cần chú trọng công tác đào tạo sinh viên luật tại các cơ sở đào tạo nhằm nâng cao kiến thức cũng như cho sinh viên tiếp cận tốt hơn với thực tiễn nghề luật, các vụ xét xử…

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nói riêng để mỗi chủ thể trong xã hội hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình một cách rõ ràng hơn.

Thực hiện tốt các biện pháp nhằm kiểm soát, quản lí, sử dụng an toàn những đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ để có thể hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro cũng như tranh chấp phát sinh từ nguồn nguy hiểm cao độ.

Tóm lại, qua việc phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chúng ta đã có một cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về vấn đề này. Có thể thấy chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tuy chỉ là một trong những trường hợp của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra và là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng với tính chất phức tạp, những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng thì đòi hỏi vấn đề này cần phải được bàn luận và khắc phục trong thời gian tới. Chỉ khi giải quyết được những hạn chế còn tồn tại thì chúng ta mới có được một cơ chế pháp luật hoàn thiện về vấn đề này nhằm bảo vệ, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M


[1] Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2016.

[2] Khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ năm 1996.

[3] Phùng Trung Tập, Luật dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

[4] Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Các tin khác