Sự biệt tích quá lâu của một người khỏi nơi cư trú làm gián đoạn các quan hệ xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến họ.[1] Do đó theo quy định của pháp luật thì những người có quyền, lợi ích liên quan đến người biệt tích có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất tích. Vậy quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích cụ thể như thế nào và có những điểm tiến bộ hay hạn chế gì?
[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 426.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015 thì khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về TTDS nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
1. Hồ sơ yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Về đơn yêu cầu: Đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích phải có các nội dung chính quy định tại Điều 362 BLTTDS năm 2015 và mẫu đơn hiện nay là Mẫu số 01-VDS ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP Nghị quyết ban hành một số biểu mẫu trong giải quyết VDS.
Tuy khoản 1 Điều 387 không quy định về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích nhưng căn cứ vào khoản 3 Điều 389 BLTTDS năm 2015 và Điều 69 BLDS năm 2015 thì cùng với yêu cầu tuyên bố một người mất tích, người yêu cầu còn được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích. [1]
Về tài liệu, chứng cứ kèm theo: Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu sẽ phải gửi các tài liệu, chứng cứ như chứng cứ về sự vắng mặt 02 năm liền trở lên của người bị yêu cầu tuyên bố là mất tích, chứng cứ về việc người yêu cầu đã thực hiện thông báo, tìm kiếm (xác nhận của cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình…) và nếu trước đó đã có quyết định của Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú thì phải có bản sao của quyết định đó.[2]
2. Nhận đơn và xử lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Theo khoản 1 Điều 363 BLTTDS năm 2015 thì thủ tục nhận đơn sẽ thực hiện theo khoản 1 Điều 191 BLTTDS năm 2015. Nếu đơn yêu cầu đã đầy đủ nội dung hoặc đã được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng đủ nội dung theo khoản 2 Điều 362 thì Thẩm phán sẽ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích, đồng thời thực hiện các thủ tục liên quan đến việc nộp lệ phí của người yêu cầu. Nếu đơn yêu cầu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 364 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án sẽ thực hiện việc trả lại đơn yêu cầu.
3. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Theo Điều 388 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án sẽ ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích và thời hạn thông báo là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo nêu trên thì Tòa án sẽ phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Trường hợp trong thời hạn thông báo, người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trở về và yêu cầu Tòa án đình chỉ xét đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.
Riêng đối với trường hợp tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích tuy BLTTDS năm 2015 không có quy định cụ thể nhưng theo nguyên tắc nếu phần thủ tục giải quyết VDS không có quy định riêng thì áp dụng quy định của phần giải quyết vụ án miễn không trái với phần VDS, thì chỉ cần có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 214 BLLTDS năm 2015, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích, ví dụ như trường hợp người yêu cầu là cá nhân đã chết mà chưa có cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ.
4. Phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích được thực hiện theo quy định tại Điều 369 BLTTDS năm 2015. Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu và nếu Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu thì sẽ ra quyết định tuyên bố một người là mất tích. Ngoài ra Tòa án có thể ra quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản nếu có yêu cầu và yêu cầu đó được chấp nhận.
5. Đánh giá quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
5.1. Những điểm tiến bộ của quy định pháp luật.
Quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích về cơ bản không có sự thay đổi từ BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 cho đến BLTTDS năm 2015. Qua đó phần nào phản ánh các quy định pháp luật hiện nay đã hợp lý và đạt hiệu quả khi áp dụng trên thực tiễn.
Bên cạnh đó, thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích dài hơn so với thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân khác là hợp lý bởi phải thực hiện thủ tục thông báo tìm kiếm người bị tuyên bố mất tích trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu.
Ngoài ra, thời gian mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích kể từ ngày hết thời hạn công bố thông báo đã được rút ngắn từ mười lăm ngày theo khoản 1 Điều 332 BLTTDS năm 2004 xuống còn mười ngày theo khoản 4 Điều 388 BLTTDS năm 2015. Việc quy định thời hạn như hiện nay sẽ giúp giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích trên thực tế được nhanh chóng hơn.
5.2. Những điểm hạn chế, bất cập còn tồn tại của quy định pháp luật.
5.2.1. Chưa có quy định cụ thể về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Khoản 6 Điều 68 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định một cách khái quát người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan "là người tuy không yêu cầu giải quyết VDS nhưng việc giải quyết VDS có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ…". Việc quy định như hiện nay đã dẫn đến việc trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích trên thực tế, Tòa án chưa có sự thống nhất khi xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Dẫn chứng cho sự không thống nhất nêu trên có thể kể đến một số quyết định giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích như sau:
Thứ nhất là Quyết định số 02/2021/QĐST-VDS ngày 22/9/2021 của TAND huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.[3] Theo đó, anh T yêu cầu tuyên bố mất tích đối với chị C nên Tòa án đã xác định chị C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ hai là Quyết định số 1116/2020/QĐST-DS ngày 01/12/2020 của TAND quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.[4] Theo đó, ông T yêu cầu tuyên bố mất tích đối với bà NY nhưng Tòa án lại không xác định bà NY là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có ba người con chung của ông T và bà NY.
Thứ ba là Quyết định số 03/2021/QĐST-DS ngày 17/9/2021 của TAND thành phố Tam Điệp, Ninh Bình.[5] Theo đó, ông Th yêu cầu tuyên bố mất tích đối với bà O. Tuy nhiên trường hợp này Tòa án đều không xác bà O cũng như ba con chung của ông Th và bà O là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà chỉ xác định ông Th là người yêu cầu giải quyết VDS.
5.2.2. Quy định về thời điểm mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích chưa cụ thể, rõ ràng.
Theo Điều 388 BLTTDS năm 2015 thì thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên và trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn trên thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Tuy nhiên, nội dung "kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên" trong quy định trên đã dẫn đến hai cách hiểu khác nhau trên thực tế. Cụ thể, khi thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, Tòa án sẽ đăng thông báo và phát thông báo. Thời hạn đăng và phát thông báo hầu hết là không cùng một ngày. Theo đó quan điểm thứ nhất cho rằng thời hạn mở phiên họp tính từ ngày đăng hoặc phát thông báo lần đầu tiên, nhưng quan điểm thứ hai lại cho rằng thời hạn mở phiên họp tính từ ngày thực hiện xong cả việc đăng và phát thông báo lần đầu tiên. Ví dụ như đăng thông báo ngày 01, 02, 03/01/2021 và phát thông báo ngày 05, 07, 09/01/2021 thì thời hạn mở phiên họp theo quan điểm thứ nhất sẽ tính từ ngày 01/01/2021 nhưng theo quan điểm hai lại tính từ ngày 05/01/2021.[6]
5.2.3. Chưa có quy định cụ thể trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích đối với người đang bị truy nã.
Truy nã là hoạt động của cơ quan điều tra nhằm truy tìm tung tích, bắt các đối tượng được quy định tại Điều 2 Thông tư số 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC. Việc tuyên bố mất tích đối với người đang bị truy nã hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau do pháp luật chưa có quy định cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Tòa án phải từ chối thụ lý đơn yêu cầu trong trường hợp này vì không thể tuyên bố mất tích đối với người đang bị truy nã. Những người theo quan điểm này cho rằng truy nã về mặt pháp lý là "đang lẩn trốn" nên không được xem là biệt tích và việc tuyên bố mất tích sẽ ảnh hưởng đến hoạt động truy nã.
Quan điểm thứ hai cho rằng Tòa án vẫn sẽ thụ lý đơn yêu cầu trong trường hợp này vì hoàn toàn có thể tuyên bố mất tích đối với người đang bị truy nã. Bởi việc một người đang bị truy nã không phải là căn cứ từ chối thụ lý đơn yêu cầu và việc tuyên bố mất tích không ảnh hưởng đến hoạt động truy nã của cơ quan điều tra.[7] Do đó hoàn toàn có cơ sở để tuyên bố một người đang bị truy nã là mất tích.[8]
6. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích.
Thứ nhất là cần có những quy định bổ sung trong BLTTDS năm 2015 để tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VDS nói chung và yêu cầu tuyên bố một người là mất tích nói riêng để thống nhất việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử.[9]
Thứ hai là cần có hướng dẫn cụ thể về thời điểm mở phiên họp xét đơn yêu cầu tuyên bố một người là mất tích được xác định bắt đầu từ thời gian nào, từ khi thực hiện xong việc đăng hoặc phát thông báo lần đầu tiên hay phải từ khi thực hiện xong cả việc đăng và phát thông báo lần đầu tiên.
Thứ ba là quy định cụ thể về việc có tuyên bố mất tích đối với người bị truy nã hay không. Theo quan điểm của tác giả, việc tuyên bố mất tích đối với người bị truy nã khi có yêu cầu là cần thiết bởi tuyên bố mất tích không phải là căn cứ để đình nã và đặc biệt nếu không tuyên bố mất tích thì sẽ không thể giải quyết ly hôn cho vợ hoặc chồng của người đang bị truy nã, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Tóm lại, quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hiện nay đã tiến bộ, phù hợp và đạt hiệu quả khi áp dụng trên thực tiễn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định cần được sửa đổi, bổ sung hoặc có hướng dẫn cụ thể để giúp Tòa án có căn cứ rõ ràng khi áp dụng trên thực tiễn.
Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M
[1] Bùi Thị Huyền, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, 2016, tr. 489.
[2] Điều 387 BLTTDS năm 2015.
[3] Xem toàn bộ nội dung Quyết định tại: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2Tòa án799550t1cvn/chi-tiet-ban-an
[4] Xem toàn bộ nội dung Quyết định tại: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2Tòa án793377t1cvn/chi-tiet-ban-an
[5] Xem toàn bộ nội dung Quyết định tại: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2Tòa án800105t1cvn/chi-tiet-ban-an
[6] Xem thêm: Mã Thị Kim Châu, Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2020, tr. 53, 54, 55.
[7] Đỗ Thị Thanh, Giải quyết quan hệ dân sự đối với người đang bị truy nã, Bài viết trao đổi nghiệp vụ, nguồn: http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/kiem-sat-vien-viet-l15/co-duoc-tuyen-bo-mat-tich-tuyen-bo-chet-doi-voi-nguoi-dang-bi-truy-na-khong-n1237.htm
[8] Vũ Thị Trang Nhung, Có được tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với người đang bị truy nã không?, nguồn: http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/kiem-sat-vien-viet-l15/co-duoc-tuyen-bo-mat-tich-tuyen-bo-chet-doi-voi-nguoi-dang-bi-truy-na-khong-n1237.htm
[9] Hoàng Xuân Hiếu, Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với một cá nhân theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2015, tr. 50.