Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống pháp luật hình sự, thể hiện sự loại bỏ hoàn toàn quyền sống – quyền cơ bản và tối thượng nhất của con người – như một biện pháp trừng trị nghiêm khắc đối với những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm đặc biệt lớn cho xã hội. Việc thi hành án tử hình, do đó, không chỉ đặt ra yêu cầu cao về tính nghiêm minh, chính xác mà còn phải bảo đảm tính nhân đạo, công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật tuyệt đối. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong việc hoàn thiện pháp luật về thi hành án tử hình, đặc biệt là chuyển đổi từ hình thức xử bắn sang tiêm thuốc độc nhằm bảo đảm tính nhân văn hơn trong thi hành án. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình thi hành án tử hình vẫn còn tồn tại không ít vướng mắc và bất cập cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn tổ chức thực hiện. Xuất phát từ những nhận định đó, bài viết này sẽ phân tích các quy định hiện hành của pháp luật thi hành án hình sự về tử hình, làm rõ những bất cập đang tồn tại trong thực tế, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi hình phạt đặc biệt này trong thời gian tới.
I. Khái quát chung về thi hành án tử hình:
Thi hành án tử hình là một trong những nội dung của thi hành án hình sự. Do vậy để có cơ sở trong việc nhận thức đầy đủ về việc thi hành án tử hình cần làm rõ khái niệm về hình phạt tử hình cũng như khái niệm thi hành án hình sự.
Theo khoản 1 Điều 40 BLHS 2015 quy định hình phạt tử hình: “Hình phạt tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật Hình sự quy định”.
Và theo định nghĩa theo khoản 5 điều 3 Luật THAHS 2019: “Thi hành án tử hình là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này tước bỏ tính mạng của người bị kết án tử hình.”
Từ những phân tích trên có thể đưa khái niệm thi hành án tử hình là: Hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền nhằm đưa bản án tử hình của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm mục đích tước bỏ quyền sống của người chấp hành án.
II. Quy định về thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật Việt Nam:
1. Cơ quan, tổ chức tham gia công tác thi hành án tử hình:
Theo Luật Thi hành án hình sự 2019, việc thi hành án tử hình có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức ở các cấp khác nhau. Cụ thể gồm: Tòa án nhân dân (cơ quan ban hành bản án và quyết định thi hành án), Viện kiểm sát nhân dân (kiểm sát việc thi hành án), cơ quan thi hành án hình sự (thuộc Bộ Công an hoặc Quân đội) trực tiếp tổ chức thi hành, cơ sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam quản lý phạm nhân trước thi hành án), cơ quan y tế (bác sỹ pháp y giám định tử thi, cơ quan y tế giám định sức khỏe), cùng Hội đồng thi hành án tử hình (gồm đại diện Tòa án, Viện KS, cơ quan thi hành án). Ngoài ra còn có các cơ quan khác như Chủ tịch nước (ra quyết định ân xá hoặc bác đơn xin ân giảm), Tòa án/Viện KS tối cao (quyết định không kháng nghị, kháng nghị giám đốc thẩm), Ủy ban nhân dân cấp xã (cấp giấy khai tử, phối hợp mai táng), lực lượng vũ trang hỗ trợ an ninh, v.v.
Tòa án nhân dân: Trong thi hành án hình sự, Tòa án có nhiệm vụ quan trọng nhất là ra quyết định thi hành án tử hình và thành lập Hội đồng thi hành án tử hình. Tòa án cũng xem xét, giải quyết việc nhận tử thi của người bị tử hình, đồng thời gửi bản án, quyết định thi hành án và các tài liệu có liên quan cho Viện KS cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự, trại giam và các bên liên quan theo quy định.
Viện kiểm sát nhân dân: Viện kiểm sát tham gia giám sát việc thi hành án một cách chặt chẽ. Viện trưởng Viện KS cấp có thể yêu cầu trưng cầu, đình chỉ thi hành án hoặc kháng nghị quyết định thi hành án nếu phát hiện sai phạm. Đại diện VKS (Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng) cũng tham gia thành viên Hội đồng thi hành án tử hình để bảo đảm các thủ tục tuân thủ pháp luật.
Cơ quan thi hành án hình sự (Bộ Công an/Quân đội): Đây là lực lượng trực tiếp thực hiện các bước kỹ thuật trong thi hành án. Theo luật, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh (hoặc cấp quân khu) chịu trách nhiệm lập, quản lý hồ sơ thi hành án tử hình. Khi thi hành án, cán bộ chuyên môn thuộc Cảnh sát Thi hành án hình sự (Bộ Công an) hoặc Vệ binh hỗ trợ tư pháp, và nếu cần cán bộ thuộc Quân đội, được huy động để áp giải phạm nhân và thực hiện thủ tục nhận dạng (lăn vân tay, kiểm tra hồ sơ nhân thân, chụp ảnh, ghi hình). Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, các cán bộ chuyên môn này trực tiếp tiêm thuốc độc cho người chấp hành án. Sau thi hành, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc cấp quân khu còn có trách nhiệm làm thủ tục khai tử tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án, bảo quản tử thi và tổ chức mai táng (vẽ sơ đồ mộ), cũng như thông báo cho thân nhân trong vòng 03 ngày. Kết quả thi hành án được báo cáo lên Hội đồng Thi hành án và gửi về Tòa án nhân dân tối cao, Viện KSND tối cao và cơ quan quản lý thi hành án hình sự theo quy định.
Cơ sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam): Nơi này quản lý phạm nhân đã có bản án tử hình cho đến khi thi hành án. Trại giam hoặc cơ quan THA huyện được giao nhiệm vụ tiếp nhận, kiểm tra, chuyển giao phạm nhân đúng người theo Quyết định thi hành án của Tòa án. Khi nhận phạm nhân, cán bộ trại giam còn phải khám sức khỏe, xác định tình trạng bệnh lý của người bị kết án, kiểm kê tài sản, đồ đạc theo quy định, giải thích quyền và nghĩa vụ của phạm nhân. Trong vòng 05 ngày, trại giam phải thông báo cho Tòa án đã ra quyết định và người thân của người bị án tử hình biết; đồng thời báo cáo quá trình tiếp nhận và các tài liệu liên quan cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự. Như vậy, trại giam đảm bảo phạm nhân được quản lý, theo dõi sức khỏe và chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho việc thi hành án.
Cơ quan y tế: Vai trò chính là giám định pháp y trước và sau thi hành án. Khi tiếp nhận phạm nhân, trại giam phối hợp với cơ quan y tế nội bộ tổ chức khám sức khỏe ban đầu cho người bị kết án (để phát hiện các tình trạng bệnh lý, phụ nữ có thai, v.v.). Sau khi thi hành án, bác sĩ pháp y sẽ xác nhận tình trạng của người đã bị tử hình và lập biên bản giám định pháp y tử thi. Kết quả pháp y được đưa vào hồ sơ thi hành án và báo cáo cho Hội đồng thi hành án. Trong trường hợp phát hiện người bị kết án thuộc đối tượng được miễn thi hành án (phụ nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi theo BLHS 2015), Hội đồng sẽ hoãn thi hành và báo cáo Tòa án.
2. Trình tự, thủ tục thi hành án tử hình:
Thi hành án tử hình là bước cuối cùng trong quá trình xử lý hình sự, mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng vì liên quan trực tiếp đến quyền sống – quyền con người cơ bản nhất. Do đó, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể, chặt chẽ và nhân đạo trong toàn bộ quy trình từ khâu ra quyết định cho đến việc thi hành và mai táng.
a. Ra quyết định thi hành án tử hình
Căn cứ vào Điều 5 Thông tư 02/2020/TTLT-BCA-BQP-BYT-BNG-TANDTC- VKSNDTC quy định về việc phối hợp tổ chức thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc do Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Y tế - Bộ Ngoại giao - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành như sau:
“1. Sau khi kiểm tra hồ sơ của người bị kết án tử hình gồm các tài liệu quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 80 của Luật Thi hành án hình sự, xác định người bị kết án không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và không thuộc trường hợp đang bị điều tra, truy tố, xét xử về một tội phạm khác thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án tử hình theo quy định tại Điều 77 của Luật Thi hành án hình sự.
2. Trường hợp trong một vụ án có nhiều người bị kết án tử hình thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra quyết định thi hành án tử hình đối với từng người bị kết án tử hình trong vụ án đó.”
Trường hợp một người bị kết án tử hình nhiều lần do các Tòa án khác nhau tuyên án, thì Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm lần cuối cùng đã tuyên án tử hình có trách nhiệm ra quyết định thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình đó.
Như vậy, người ra quyết định thi hành án tử hình là Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm. Trường hợp một người bị kết án tử hình nhiều lần do các Tòa án khác nhau tuyên án, thì Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm lần cuối cùng đã tuyên án tử hình có trách nhiệm ra quyết định thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình đó.
b. Thành lập Hội đồng thi hành án tử hình
Căn cứ theo khoản 3 Điều 78 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Hội đồng thi hành án tử hình bao gồm:
a) Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án làm Chủ tịch Hội đồng;
b) Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp;
c) Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp.
Hội đồng chịu trách nhiệm tổ chức và giám sát việc thi hành án đúng quy định pháp luật.
c. Kiểm tra điều kiện thi hành án
Hội đồng thi hành án phải kiểm tra lại các điều kiện pháp lý, lý lịch, và tình trạng sức khỏe của người bị thi hành án. Theo khoản 2, khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
“2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.”
d. Chuẩn bị thi hành án
Cơ quan thi hành án cho người bị án ăn bữa ăn cuối, viết thư hoặc chúc thư, làm các thủ tục xác nhận nhân thân như lăn tay, chụp ảnh. Đồng thời, cơ quan y tế kiểm tra sức khỏe để đảm bảo đủ điều kiện thi hành án.
e. Thi hành án bằng phương pháp tiêm thuốc độc
Hiện nay, hình thức tiêm thuốc độc là phương thức duy nhất áp dụng trong thi hành án tử hình ở Việt Nam. Theo Điều 4 Nghị định số 43/2020/NĐ-CP:
“1. Thuốc tiêm để sử dụng cho thi hành án tử hình bao gồm:
a) Thuốc làm mất tri giác;
b) Thuốc làm liệt hệ vận động;
c) Thuốc làm ngừng hoạt động của tim.
2. Một liều thuốc gồm 03 loại thuốc quy định tại khoản 1 Điều này và dùng cho 01 người.”
f. Giám định pháp y và lập biên bản
Theo Điều 82 Luật Thi hành án hình sự 2019, Theo lệnh của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, bác sỹ pháp y xác định tình trạng của người đã bị thi hành án tử hình và báo cáo kết quả cho Hội đồng. Hội đồng thi hành án tử hình lập biên bản thi hành án; báo cáo về quá trình, kết quả thi hành án cho Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan quản lý thi hành án hình sự. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu làm thủ tục khai tử tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án;
g. Mai táng và thông báo
Theo Điều 83 Luật Thi hành án hình sự năm 2019,
“1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án tử hình, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải thông báo cho thân nhân hoặc người đại diện của người bị thi hành án tử hình biết để làm đơn xin nhận tử thi của người đã bị thi hành án tử hình. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, đơn xin nhận tử thi của người bị thi hành án tử hình phải được gửi cho Chánh án Tòa án đã ra thông báo…
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn xin nhận tử thi về mai táng của thân nhân hoặc người đại diện của người bị thi hành án tử hình, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án tử hình phải thông báo bằng văn bản về việc chấp nhận hay không chấp nhận cho nhận tử thi về mai táng. Nếu không chấp nhận cho nhận tử thi về mai táng thì nêu rõ lý do.”
Như vậy, trình tự, thủ tục thi hành án tử hình tại Việt Nam hiện nay thể hiện sự cẩn trọng của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, nhất là quyền sống – quyền cơ bản nhất. Quy trình được quy định rõ ràng, chặt chẽ, có sự phối hợp của nhiều cơ quan tư pháp và có giám sát của Viện kiểm sát. Đồng thời, việc chuyển đổi phương thức thi hành từ xử bắn sang tiêm thuốc độc cũng thể hiện xu hướng nhân đạo hóa hình phạt tử hình. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn một số bất cập, như điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực, cũng như quy trình đánh giá tình trạng tâm thần hoặc thai sản ở người bị kết án, cần được tiếp tục hoàn thiện để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nhân đạo.
III. Những hạn chế, bất cập từ thực tiễn thi hành hình phạt tử hình và một số kiến nghị:
1. Hạn chế, bất cập:
Thứ nhất, vướng mắc về cơ sở vật chất và nhân lực. Nhiều trại giam, trại tạm giam và nhà tạm giữ hiện nay đang trong tình trạng quá tải, xuống cấp hoặc chưa đạt chuẩn về điều kiện giam giữ theo yêu cầu của Luật Thi hành án hình sự. Cụ thể, số lượng người bị kết án tử hình tăng nhanh (gần 30%) trong khi cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để phục vụ quản lý giam giữ chưa đáp ứng yêu cầu. Điều này dẫn đến quá tải ở một số trại tạm giam, tạo áp lực rất lớn cho công tác quản lý giam giữ . Tại nhiều trại giam, lực lượng phục vụ THAHS còn mỏng. Chẳng hạn, lãnh đạo Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình thừa nhận “đội ngũ làm công tác tham mưu, hậu cần… khá mỏng, nhiệm vụ vô cùng nặng nề, áp lực đè nặng lên từng cán bộ” . Số lượng cán bộ chuyên trách THAHS ở các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; một số nơi phải điều động đồng chí công an kiêm nhiệm hoặc phối hợp với nhiều lực lượng khác mới đủ người thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, cơ sở vật chất cho thi hành án hình sự (phòng giam riêng cho tử tù, nhà thi hành án tử hình, trang thiết bị y tế, hệ thống giám sát) còn thiếu, bất cập – điều này gián tiếp làm tăng gánh nặng công việc cho cán bộ. Theo báo cáo, hiện có 57/69 trại tạm giam đã xây dựng khu giam riêng người bị kết án tử hình với tổng số 700 buồng giam, hơn 1.200 chỗ giam giữ. Tuy nhiên, trong số này có 24 buồng giam xuống cấp, không đảm bảo cho công tác quản lý giam giữ; 12 trại tạm giam chưa có khu giam riêng người bị kết án tử hình; 28/69 trại tạm giam phải sửa chữa các buồng tạm giam, buồng kỷ luật để giam người bị kết án tử hình… Chính phủ cũng cho biết hiện có 60/69 trại tạm giam đã được đầu tư lắp đặt hệ thống kiểm soát an ninh phục vụ công tác giám sát buồng giam người bị kết án tử hình với tổng số gần 1.200 camera nhưng hơn 60 camera đã xuống cấp, hư hỏng. Đến nay, Bộ Công an đã đưa vào sử dụng 11 nhà thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc và phân chia khu vực thi hành án tử hình thành 11 địa điểm theo vùng, miền. Còn bốn nhà thi hành án tử hình tại công an địa phương gồm Đà Nẵng, Lào Cai, Khánh Hòa, Hậu Giang chưa xây dựng vì chưa bố trí được quỹ đất và số lượng giam giữ người bị kết án tử hình không nhiều…
Thứ hai, khó khăn về nguồn cung ứng thuốc độc. Việt Nam đã chuyển sang áp dụng hình thức thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc nhằm tăng tính nhân đạo so với phương thức xử bắn trước đây. Tuy nhiên, việc triển khai phương thức này gặp nhiều khó khăn. Một trong những trở ngại lớn là nguồn cung ứng thuốc độc. Do Việt Nam chưa tự sản xuất được các loại thuốc cần thiết, việc nhập khẩu từ nước ngoài trở nên khó khăn, đặc biệt khi nhiều quốc gia, như các nước châu Âu, từ chối xuất khẩu thuốc phục vụ cho mục đích thi hành án tử hình. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ thực hiện thi hành án còn thiếu kỹ năng chuyên môn, đặc biệt trong việc xác định tĩnh mạch để tiêm thuốc. Một số địa phương đã mời bác sĩ tham gia hỗ trợ, nhưng điều này vấp phải sự phản đối từ ngành y tế, do mâu thuẫn với nguyên tắc nghề nghiệp và lời thề Hippocrates của bác sĩ .
2. Kiến nghị:
Thứ nhất, cần đào tạo chuyên sâu cho cán bộ thi hành án. Để chuẩn bị đội ngũ chuyên môn, các cơ sở đào tạo trong lực lượng Công an đã bắt đầu xây dựng chương trình và giảng dạy nghiệp vụ THAHS. Ví dụ, Trường Cao đẳng Cảnh sát Nhân dân I mới thành lập Khoa Cảnh sát Thi hành án hình sự – Hỗ trợ tư pháp từ năm 2020 để đáp ứng yêu cầu đào tạo . Học viện Cảnh sát nhân dân cũng tổ chức các lớp tập huấn về pháp luật và nghiệp vụ THAHS cho cán bộ chiến sĩ công an địa phương nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm trong quá trình thi hành án . Tuy nhiên, các khóa đào tạo này chủ yếu mang tính chung về pháp luật và nghiệp vụ cơ bản; việc xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, bài bản cho cán bộ thi hành án hình sự còn rất hạn chế. Nội dung huấn luyện về những tình huống đặc biệt (như phòng ngừa tự sát của tử tù, kỹ thuật tiêm thuốc độc, hay xử lý sự cố) chưa được quy định rõ ràng trong chương trình đào tạo chuyên môn của lực lượng thi hành án.
Thứ hai, đối với vấn đề khó khăn trong nguồn cung ứng thuốc độc, thay vì phụ thuộc vào các quốc gia phản đối tử hình (như EU), Việt Nam có thể tiếp cận các nước chưa có chính sách cấm tuyệt đối việc cung ứng thuốc phục vụ tử hình. Đồng thời bảo mật danh tính, mục đích nhập khẩu bằng cách xây dựng cơ chế mua bán kín, thông qua tổ chức trung gian có thể tránh gây áp lực về ngoại giao và nhân quyền. Bên cạnh đó chúng ta cũng phải đảm bảo tử tù được thi hành án không đau đớn, nhanh chóng, đúng quy định về quyền con người trong Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Trong bối cảnh nhiều quốc gia phản đối cung ứng thuốc độc cho mục đích tử hình, việc tự chủ nguồn cung, xây dựng khung pháp lý đặc thù và áp dụng các biện pháp nhân đạo là con đường khả thi và cần thiết với Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Thùy Dương - Công ty Luật TNHH H&M