0240.73088281
Logo

Những đặc trưng của thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách Nhà nước, thực hiện phân phối thu nhập và định hướng kinh doanh. Pháp luật về thuế TNDN được ban hành phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế trong từng giai đoạn là một tất yếu khách quan phù hợp với định hướng phát triển về chính sách thuế của nước ta và thông lệ quốc tế. Vậy thuế thu nhập doanh nghiệp có những đặc trưng gì?

1. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Dưới góc độ pháp lý, thu nhập được hiểu là “Các khoản tiền, hiện vật hoặc hình thức lợi ích mang tính chất kinh tế khác nhau của các tổ chức, cá nhân nhận được từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao động quyền sở hữu tài sản, quà tặng,… mà có hoặc các khoản thu nhập khác mà xã hội dành cho họ”. Thuế thu nhập được hiểu là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các cá nhân có thu nhập phát sinh từng lần hoặc trong một khoảng thời gian xác định từ một số nguồn nhất định.

Ở Việt Nam hiện có nhiều quan điểm khác nhau về thuế TNDN. Các quan điểm khác nhau như “Thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh trên cơ sở lợi nhuận của doanh nghiệp trong thời kì kinh doanh”; “Thuế TNDN là sắc thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp trong kì tính thuế” hay “Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh vào cơ sở kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển”.

Nhìn chung, các quan điểm trên có đặc điểm chung là chỉ ra được bản chất của thuế TNDN là loại thuế trực thu. Tuy nhiên, từ những cách hiểu trên, có thể hiểu một cách khái quát: “Thuế TNDN là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập thuộc diện tính thuế của các tổ chức có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ”.

2. Những đặc trưng của thuế thu nhập doanh nghiệp

Thứ nhất, thuế TNDN là một loại thuế trực thu, diện đánh thuế rộng, có đối tượng tính thuế khác hẳn so với đối tượng tính thuế của bất kỳ một loại thuế gián thu nào.

- Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu:

Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập, thuế đánh vào của cải, thuế đánh vào đối tượng thường trú. Được gọi là thuế trực thu vì người có nghĩa vụ nộp thuế thường là người gánh chịu thuế. Người nộp thuế không thể chuyển nghĩa vụ thuế sang cho các đối tượng khác. Nói cách khác, Nhà nước đã tiến hành điều tiết trực tiếp một phần thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào ngân sách Nhà nước. Khi miễn giảm thuế trực thu cho đối tượng nộp thuế cũng chính là miễn giảm cho người chịu thuế. Vì vậy, trong các loại thuế trực thu chứa đựng rất nhiều các trường hợp miễn giảm thuế. Thuế trực thu cá biệt hóa người chịu thuế nhằm thực hiện vai trò điều tiết của thuế và thực hiện công bằng xã hội. Mặc dù thuế trực thu có ưu điểm đảm bảo cho sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người nộp thuế, nhưng thường gây ra phản ứng về thuế của người nộp thuế do không có sự chuyển dịch về thuế và có một sự đảm bảo chắc chắn rằng phải thực hiện một nghĩa vụ nộp tiền. Chủ thể chịu thuế trong thuế trực thu cảm nhận gánh nặng về thuế nên thường sinh ra tâm lý trốn thuế, làm giảm số thuế mình phải nộp bằng nhiều cách thức khác nhau như: khai giảm thu nhập, kê khai nhiều khoản chi phí sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế,...

Đối tượng nộp thuế TNDN là các doanh nghiệp, nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đồng thời cũng là người chịu thuế. Đặc điểm của thuế trực thu là việc đánh thuế có tính đến khả năng của nguời nộp thuế. Được xem là loại thuế trực thu nhưng đôi khi đối tượng chịu thuế TNDN có thể chuyển gánh nặng về thuế cho các đối tượng khác. Thuế TNDN có thể chuyển cho cổ đông, cho người tiêu dùng hoặc cho cả người lao động trong doanh nghiệp. Thuế TNDN có tính trung lập vậy nên nó được đảm bảo hơn do điều tiết phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của từng doanh nghiệp, các nhà đầu tư.

Thuế TNDN là thuế trực thu, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu nhập xã hội nên thường gắn với chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Thuế TNDN có khả năng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới thành lập ổn định và phát triển, cũng như khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lao động đặc thù, giải quyết việc làm và các vẫn đề xã hội. Chính bởi mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa xã hội mà pháp luật thuế thu nhập các nước thường có những quy định về chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích của thuế thu nhập hoặc thực hiện việc áp dụng đánh thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần đối với một số khoản thu nhập chịu thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết. Tuy nhiên, thuế TNDN thường không sử dụng thuế suất lũy tiến mà sử dụng thuế suất thống nhất. Mức thuế suất khác nhau có thể áp dụng đối với các nhóm đối tượng hoặc một số loại thu nhập khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu chính sách thuế của mỗi nước.

- Thuế thu nhập doanh nghiệp có diện đánh thuế rộng, có đối tượng tính thuế khác hẳn so với đối tượng tính thuế của bất kỳ một loại thuế gián thu nào:

Cùng là thuế thu nhập nhưng đối tượng nộp thuế của thuế TNDN khác đối tượng nộp thuế của thuế thu nhập cá nhân, thể hiện ở tên gọi từng loại thuế. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là các cá nhân kinh doanh và không kinh doanh có thu nhập chịu thuế phát sinh. Còn đối tượng nộp thuế TNDN phải là tổ chức kinh doanh có thu nhập chịu thuế phát sinh. Dựa vào đối tượng nộp thuế, Nhà nước đã phân chia thành hai loại thuế khác nhau để việc đánh thuế được công bằng và hiệu quả. Đây là dấu hiệu đặc trưng cơ bản để phân biệt thuế TNDN với thuế thu nhập cá nhân.

Thuế TNDN đánh vào thu nhập của chủ thể nộp thuế ở giai đoạn tích lũy. Hơn nữa, đối tượng nộp thuế và người chịu thuế của thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt là hai chủ thể khác nhau thì ở thuế TNDN, người nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế. Đối tượng chịu thuế TNDN sẽ bao gồm thu nhập có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các khoản thu nhập khác mà cơ sở kinh doanh có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Hay nói cách khác là toàn bộ thu nhập có được từ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là thu nhập sẽ chịu thuế TNDN. Doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế càng cao thì sẽ phải nộp thuế thu nhập càng nhiều và ngược lại, các doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế thấp hoặc gặp khó khăn về tài chính sẽ chỉ nộp thuế ít thậm chí được giảm thuế, miễn thuế. Thuế TNDN ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế nên hiện nay nhiều doanh nghiệp thường tìm cách để trốn thuế, gian lận thuế.

Thứ hai, thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập cá nhân là các khoản thu nhập phát sinh từ kinh doanh, lao động và các khoản thu nhập khác không từ kinh doanh của các cá nhân, còn thu nhập chịu thuế trong thuế TNDN là các khoản thu nhập từ kinh doanh và thu nhập khác của tổ chức kinh doanh. Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng rất cơ bản để phân biệt thuế TNDN với thuế thu nhập cá nhân.

Theo quy định của Luật Thuế TNDN thì một tổ chức sẽ là đối tượng nộp thuế TNDN khi có hai sự kiện pháp lý sau:

Một là, có sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hay còn gọi là có hành vi kinh doanh. Theo cách hiểu thông thường thì hành vi kinh doanh là hành vi của chủ thể kinh doanh. Dưới góc độ quản lý hành chính thì một tổ chức được quyền thực hiện các hành vi kinh doanh của mình khi họ có đủ tư cách pháp lý của một chủ thể kinh doanh hợp pháp tức là khi họ đã làm thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho họ. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý thuế thì dấu hiệu xác định tổ chức có hành vi kinh doanh theo nghĩa rộng hơn, thông thoáng và mềm dẻo hơn nhằm hạn chế khả năng gây thất thu thuế, tạo thuận lợi cho cơ quan thuế, đối tượng nộp thuế thực thi nhanh chóng các nghĩa vụ của mình. Theo tinh thần của Luật Thuế TNDN thì một tổ chức được coi thỏa mãn dấu hiệu “có hành vi kinh doanh” khi họ thuộc một trong hai trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất, tổ chức đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, kể từ khi đó họ được xem là có hành vi kinh doanh mà không cần quan tâm đến việc họ đã thực hiện hành vi kinh doanh trên thực tế hay chưa; Trường hợp thứ hai, tổ chức đã thực tế tiến hành hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước không cấm nhưng họ chưa đăng kí kinh doanh thì họ cũng được xem là có đủ dấu hiệu “hành vi kinh doanh” và thời điểm xác định họ có hành vi kinh doanh kể từ thời điểm họ bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hành vi kinh doanh này có thể coi là chưa hợp thức về phương diện quản lý hành chính nhưng có thể coi là hợp thức trên phương diện quản lý thuế khi họ đã làm thủ tục đăng kí thuế trước hoặc cùng với thời điểm tiến hành hoạt động kinh doanh của mình[1].

Khi một tổ chức được xác định là có hành vi kinh doanh thì khi đó phát sinh nghĩa vụ đăng kí thuế của họ với cơ quan thuế. Tuy nhiên, chưa làm phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hai là, có thu nhập phát sinh. Dấu hiệu có thu nhập phát sinh là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế của đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, thu nhập phát sinh ở đây phải là thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế TNDN, cụ thể “thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác”. Về nguyên tắc, bất kì khoản thu nhập nào của tổ chức kinh doanh thì đều phải chịu thuế TNDN. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách khuyến khích, đãi ngộ, Luật thuế thu nhập có quy định các khoản thu nhập được miễn thuế như thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản; thu nhập của Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; thu nhập từ việc thực hiện dịch vụ kĩ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp;…và một số khoản thu nhập được miễn thuế khác theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.[2]

Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế phức tạp, thiếu ổn định, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn.

Thuế TNDN đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất, kinh doanh và làm giảm ngay khả năng sử dụng thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này dễ gây ra phản ứng từ đối tượng nộp thuế, dẫn đến có tình trạng trốn thuế và gian lận thuế. Mặt khác, khi tính thuế TNDN, việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế, nguồn gốc khoản thu, địa điểm phát sinh thu nhập, yếu tố cư trú của tổ chức, các khoản chi phí hợp lý và khoản chi phí không hợp lý mà việc khấu trừ rất phức tạp, rất khó kiểm soát khiến công tác quản lý thuế có nhiều khó khăn và trở ngại, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao kèm theo viêc áp dụng các phương tiện quản lý kỹ thuật hiện đại.

So với các loại thuế gián thu (như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) thì thuế TNDN - một loại thuế trực thu thiếu ổn định hơn. Các loại thuế gián thu đánh vào hành vi tiêu dùng nên ngay cả khi nền kinh tế đi xuống thì hoạt động mua sắm, chi tiêu vẫn diễn ra, do vậy Nhà nước vẫn thu được thuế mà số thu không giảm sút đáng kể. Trong khi đó, đối với thuế TNDN đánh vào thu nhập nên thường có sự biến động. Nếu kinh tế phát triển mạnh thì thu nhập của doanh nghiệp sẽ khá hơn và tăng thuế thu. Ngược lại, nền kinh tế có sự suy giảm thì TNDN sẽ giảm và số thuế thu sẽ giảm đi rõ rệt.

Thứ tư, thuế thu nhập doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của luật quốc gia và luật quốc tế.  Nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm các văn bản pháp luật quốc gia và cả luật quốc tế. Vì thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu nên nó là đối tượng được điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh thuế hai lần[3].

Nguyễn Thị Việt Hà - Công ty Luật TNHH H&M


[1] Phạm Thị Giang Thu (Chủ biên), “Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019.

[2] Phạm Thị Giang Thu (chủ biên), “Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019.

[3] Phạm Thị Giang Thu (chủ biên), “Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019.

Các tin khác