0240.73088281
Logo

Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong tố tụng dân sự

Luật TTDS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong TTDS để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Để quá trình tố tụng đảm bảo được thực hiện một cách thống nhất và đúng với quy định pháp luật thì hoạt động tố tụng dân sự cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật TTDS[1]. Một trong những nguyên tắc cơ bản thể hiện trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dân sự đối với việc giải quyết vụ việc dân sự là nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr.36.

I. Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.

1. Cơ sở hình thành.

1.1. Cơ sở lý luận.

Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của con người, được nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật quốc gia quy định, trong đó có Việt Nam. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Do đó, một trong những phương thức để bảo vệ quyền con người chính là các đương sự được thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS. Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự là các quan hệ tư, nên khi điều chỉnh các quan hệ này phải luôn đảm bảo giữa các đương sự được xét xử bình đẳng, công bằng. Do đó, đương sự phải có quyền tranh tụng để thuyết phục Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngoài ra, TTDS chính là quá trình Tòa án đứng ra giải quyết tranh chấp giúp hai bên đương sự theo thủ tục tư pháp dân chủ. Do đó, xuất phát từ yêu cầu cốt lõi của việc giải quyết tranh chấp dân sự là phải xác định được sự thật khách quan của vụ án, Tòa án sẽ phải cho các đương sự tương tác trong một quá trình liên tục thì Tòa án mới có thể nhìn nhận được sự thật khách quan. Hay nói cách khác, chỉ có thông qua tranh tụng thì Tòa án mới có thể đưa ra được bản án chính xác, công khai và minh bạch[1].

1.2.  Cơ sở thực tiễn.

Xuất phát từ thực tiễn xét xử các tranh chấp dân sự của Tòa án, nhiều vụ án tính dân chủ không được đảm bảo, hoạt động tranh tụng không có hoặc có nhưng chỉ mang tính chất hình thức, ảnh hưởng lớn đến chất lượng các phán quyết của Tòa án, không đảm bảo được quyền lợi của đương sự. Việc quy định nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong TTDS là giải pháp để tạo điều kiện cho các đương sự trình bày chứng cứ, lỹ lẽ, làm sáng tỏ vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính các đương sự. Đồng thời qua đó nâng cao hiệu quả xét xử và chất lượng các bản án của Tòa án, hạn chế đến mức thấp nhất số lượng các bản án bị hủy, sửa do vi phạm nguyên tắc và thủ tục tố tụng. 

2. Căn cứ pháp lý.

Ở Việt Nam, nguyên tắc tranh tụng lần đầu tiên được quy định tại Luật số 65/2011/QH12: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Cụ thể, tại khoản 4 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS có nêu: "Bổ sung Điều 23a như sau:

"Điều 23a. Bảo đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự

Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự."".

Hiện nay, nguyên tắc tranh tụng đã được quy định tại các văn bản pháp luật sau:

Thứ nhất là tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: "Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo".

Thứ hai là tại Điều 24 BLTTDS năm 2015: "Điều 24. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử

1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.

2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này.

3. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định."

3. Ý nghĩa.

Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS sẽ góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực TTDS. Khi tranh tụng trong TTDS được đảm bảo, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ, qua đó thực hiện được mục tiêu Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, không cho phép bất cứ chủ thể nào xâm phạm bất hợp pháp quyền lợi của người khác.

Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng góp phần bảo đảm tính dân chủ, công bằng trong quá trình TTDS. Theo đó, các đương sự, người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các lý lẽ, căn cứ pháp lí đối đối đáp nhau để làm rõ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng của các bên để giải quyết vụ án dân sự một cách khách quán, công bằng và đúng pháp luật.

Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS sẽ tạo cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án. Với việc gaiir quyết vụ án dân sự theo nguyên tắc tranh tụng, các đương sự có điều kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra, tranh tụng cũng buộc các đương sự phải nỗ lực, tích cực hơn trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là cơ sở để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để thu thập chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia[2].

Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng góp phần bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên là khách quan, có căn cứ và hợp pháp. Qua quá trình tranh tụng, Tóa án sẽ xác định được sự thật khách quan của vụ án dân sự. Trên cơ sở đó, Tòa án giải quyết được yêu cầu của các đương sự, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật, có đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự một cách chính xác, công minh và đúng pháp luật.

Thứ năm, bảo đảm tranh tụng trong TTDS còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. Khi giải quyết tranh chấp, để đảm bảo cho các bên thực hiện được quyền tranh tụng, Tòa án phải giải thích cho các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ. Vì vậy, các đương sự được giáo dục các kiến thức pháp luật, giúp nâng cao ý thức của người dân và củng cố lòng tin của họ vào công lý.

II. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh trụng trong TTDS.

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS đã được ghi nhận với những nội dung sau:

Thứ nhất, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã nộp. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS năm 2015.

Ngay từ khi nộp đơn khởi kiện, về nguyên tắc, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp chứng cứ, giao nộp cho Tóa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ một số trường hợp[3]. Đối với người khởi kiện phải gửi theo đơn khởi kiện chứng cứ hiện có để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Còn với bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu có trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý của Tòa án[4]. Bởi lẽ, trong văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của đương sự thì bị bi đơn, người liên quan có quyền bác bỏ yêu cầu của người khởi kiện và gửi tài liệu, chứng cứ kèm theo những lập luận của mình về việc phản đối hay chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Những quy định này đã phần nào thể hiện bản chất của hoạt động tranh tụng trong TTDS, đó là sự trao đổi, phản bác chứng cứ, lập luận giữa các bên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đồng thời, BLTTDS năm 2015 đã quy định khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì đồng thời họ có nghĩa vụ gửi bản sao hoặc thông báo tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác có liên quan trong vụ án, bổ sung quy định phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ đó đảm bảo quyền tiếp cận chứng cứ của các đương sự, tạo điều kiện cho các bên có đủ điều kiện để thực hiện quyền tranh tụng của mình.

Trừ những chứng cứ liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư... thì những chứng cứ khác đều phải được công khai. Việc công khai chứng cứ cho thấy sự minh bạch, bình đẳng, khách quan của pháp luật trong việc tạo nền tảng pháp lý cho các bên tranh tụng. Khi công khai chứng cứ, các bên tham gia tranh tụng có thể kiểm tra xem chứng cứ mình cung cấp đã được đưa ra để xem xét hay chưa, đồng thời kiểm tra đối phương đã cung cấp, thông báo đầy đủ chứng cứ trước đó cho mình hay chưa.

Thứ hai, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác.

Trong TTDS, đương sự là người đưa ra yêu cầu, là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp, là người biết rõ sự việc và việc xét xử của Tòa án liên quan đến lợi ích của chính họ. Do đó, hoạt động chứng minh tại phiên tòa trước hết thuộc về các đương sự tùy vào vị trí tham gia tố tụng mà đưa ra các chứng cứ, lập luận chứng minh cho yêu cầu của mình có căn cứ và hợp pháp hoặc phản bác lại yêu cầu của đương sự khác. Hội đồng xét xử phải lắng nghe và bảo đảm tất cả các bên đương sự đều có cơ hội trình bày, đưa ra chứng cứ, lý lẽ, lập luận với phía bên kia một cách bình đẳng, khách quan. Theo đó, tại khoản 1 Điều 247 có quy định tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Việc tranh tụng sẽ được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không liên quan đến vụ án dân sự. Khi phát biểu đánh giá về chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án hay bác bỏ yêu cầu của người khác, người tham gia tranh tụng phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả của việc hỏi tại phiên tòa.

Thứ ba, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của BLTTDS năm 2015.

Trong suốt quá trình tranh tụng, vai trò của Tòa án (thẩm phán) là rất quan trọng, thậm chí có vai trò gần như quyết định đến chất lượng của quá trình tranh tụng. Mặc dù thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là một chủ thể hay một bên trong quá trình tranh tụng nhưng với tư cách là người nhân danh Nhà nước, thực thi công lý, họ có vai trò như người trọng tài, người hướng dẫn cho các bên đương sự trong việc thực hiện quyền tranh tụng bình đẳng và đúng pháp luật. Để tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện được quyền tranh tụng thì Tòa án phải xác định và triệu tập đầy đủ các đương sự đến tham gia tố tụng, phổ biến, giải thích cho họ quyền và nghĩ vụ tố tụng. Tòa án phải luôn tôn trọng việc thực hiện quyền tranh tụng, không được hạn chế việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự. Đối với các đương sự không có khả năng tự bảo vệ hoặc không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì Tóa án phải đảm bảo đương sự nhận được sự hỗ trợ pháp lý từ những người khác.

Thứ tư, Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.

Trong khi tranh tụng, Tóa án sẽ là người điều hành quá trình này. Tuy nhiên, Tóa án sẽ chỉ lắng nghe ý kiến tranh tụng của các bên, duy trì cho việc tranh tụng đi đúng nội dung, hướng quá trình tranh tụng vào việc giải quyết các yêu cầu của đương sự, các căn cứ pháp lý và thực tiễn của các yêu cầu đó. Tòa án chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ và can thiệp ở mức độ cần thiết để cuộc tranh tụng được rõ ràng và chân thực. Tóa án xem xét công khai mọi tài liệu, chứng cứ rồi từ đó căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án. Tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của tóa án, Tòa phải xem xét quá trình tranh tụng của các bên một cách khách quan nhất để từ đó đưa ra những kết luận nhằm giải quyết vụ án, tránh để xảy ra tình trạng "án bỏ túi". Chỉ khi Tòa án đảm bảo thực hiện được đúng như vậy thì quá trình tranh tụng mới thực sự có ý nghĩa và phát huy vai trò trong việc giải quyết vụ án dân sự.

 

[1] Phạm Thị Ngọc Ánh, Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2016, tr.21.

[2] Trịnh Văn Chung, Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2016, tr. 11.

[3] Điều 91 BLTTDS năm 2015.

[4] Khoản 1 Điều 199 BLTTDS năm 2015.

Các tin khác