Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Để quá trình tố tụng đảm bảo được thực hiện một cách thống nhất và đúng với quy định pháp luật thì hoạt động tố tụng hình sự cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận. Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng hình sự chịu sự chi phối của các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật như: Pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình dẳng trước pháp luật.... Ngoài ra, những quy tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào pháp luật tố tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù, từ đó dẫn đến có những nguyên tắc đặc thù. Một trong số những nguyên tắc đặc thù của tố tụng hình sự là nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự". Vậy cụ thể nguyên tắc trên được quy định như thế nào và những điều kiện đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc là gì?
Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có của con người, được nhiều văn kiện quốc tế, pháp luật quốc gia quy định. Mặt khác, tố tụng hình sự là một lĩnh vực đặc thù, nhạy cảm mà ở đó quyền con người dễ bị xâm phạm nhất. Theo quy định thì không ai bị coi là có tội trước khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nên người bị buộc tội về mặt pháp lý là chưa có tội. Vì vậy họ phải được bảo đảm tối thiểu các quyền con người, quyền công dân theo quy định của pháp luật như các công dân khác. Do đó, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc buộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong tố tụng hình sự, để xác định sự thật khách quan của vụ án, luôn cần phải có đủ các yếu tố, chứng cứ ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trên cơ sở đó mới có đánh giá, nhìn nhận toàn diện các tình tiết trong vụ án. Việc xác định sự thật khách quan sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ nghe ý kiến từ một phía buộc tội, bởi ý kiến mang tính chủ quan của mỗi người nên rất dễ bị phiến diện. Do đó, chức năng bào chữa của người bị buộc tội tồn tại song song cùng chức năng buộc tội. Đồng thời, người bị hại, đương sự cũng cần phải được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. Từ đó giúp cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, góp phần loại bỏ tình trạng làm oan, sai người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Nguyên tắc về đảm bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp và BLTTHS của nước ta từ trước đến nay. Từ đó cho thấy tính ổn định của nguyên tắc này ở pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, quy định về đảm bảo quyền bào chữa trong mỗi bản Hiến pháp và BLTTHS lại có sự thay đổi. Cho đến nay, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã được quy định một cách đầy đủ nhất tại các văn bản pháp luật sau:
Thứ nhất là tại khoản 4 Điều 31 và khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013:
"Điều 31. ...4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
...
Điều 103. ...7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm."
Thứ hai là tại Điều 16 BLTTHS năm 2015:
"Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này."
Thứ nhất, nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" là sự thể hiện cụ thể cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội nhưng song song với đó, Nhà nước luôn chú ý tới việc phát huy toàn diện quyền tự do, dân chủ của công dân, đảm bảo các quyền con người. Việc Hiến pháp và BLTTHS ghi nhận quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự đã chứng tỏ bản chất ưu việt và quan điểm đúng đắn của Nhà nước ta.
Thứ hai, nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" đã thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Tính nhân đạo được thể hiện ở chỗ pháp luật đã quy định trường hợp chỉ định người bào chữa tại Điều 76 BLTTHS năm 2015. Theo đó, trong trường hợp bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình hoặc người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần, người dưới 18 tuổi mà người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ.
Thứ ba, nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" đã thể hiện tính dân chủ trong tố tụng hình sự. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định nhằm bảo đảm cho họ trình bày quan điểm của mình đối với việc bị buộc tội, đưa ra các chứng cứ cần thiết, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự[1]. Có buộc tội mà không có bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính chất một chiều và kết buộc chứ không phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự không thể được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có đối trọng là chức năng bào chữa[2].
Thứ tư, việc ghi nhân nguyên tắc này còn là điều kiện quan trọng và cần thiết bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự khách quan, công bằng, dân chủ; giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan, giải quyết vụ án một cách đúng đắn, làm giảm đến mức tối đa khả năng làm oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Đồng thời còn là cơ sở phát sinh trách nhiệm của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền bào chữa suốt các giai đoạn tố tụng cũng như trong cả quá trình thi hành công vụ.
Thứ năm, việc Hiến pháp và BLTTHS ghi nhận nguyên tắc trên đã thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong vấn đề bảo đảm quyền con người, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự.
Trên cơ sở quy định tại khoản 4 Điều 131 Hiến pháp năm 2013, Điều 16 BLTTHS đã ghi nhận nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự" với những nội dung sau:
Thứ nhất, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Trước đây, tại các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 2003 đều quy định quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Còn BLTTHS năm 1988 quy định: "Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa" và BLTTHS năm 2003 quy định: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa". Như vậy có thể thấy, khác với các quy định trước đây, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể của quyền bào chữa. Tại điểm đ khoản 1 Điều 1 BLTTHS năm 2015 có quy định: "Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bi tạm giữ, bị can, bị cáo". Từ đó, quyền bào chữa hiện nay không chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị bắt.
Cùng với sự mở rộng diện người được bào chữa thì thời điểm bắt đầu có quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng đến sớm hơn. Nếu như trước đây quyền bào chữa của người bị buộc tội có từ khi bị tạm giữ, thì theo BLTTHS năm 2015, quyền bào chữa đã có ngay từ khi bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc bị bắt. Quy định như vậy không chỉ nhằm thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội mà còn là một trong những giải pháp để hạn chế oan, sai ngay từ đầu.
Khi tự bào chữa cho mình, người bị buộc tội sử dụng các quyền, hành vi tố tụng mà pháp luật cho phép để chứng minh mình vô tội, sự thật không đúng như hồ sơ vụ án hay chứng minh giảm nhẹ tội cho mình... Họ có thể đưa ra các lý lẽ, các chứng cứ, trình bày lời khai hoặc yêu cầu đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình khi không có sự tham gia của người bào chữa.
Trong nhiều trường hợp, do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế và những lý do, điều kiện nhất định nên không phải người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực hiện hiệu quả quyền tự bào chữa. Vì vậy, nếu người bị buộc tội không tự bào chữa thì có thể nhờ người bào chữa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 BLTTHS năm 2015 thì "Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa". Người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân hoặc trợ giúp viên pháp lý.
Luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp, hoạt động trong đoàn luật sư. Luật sư chỉ tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội.
Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình[3] trong những trường hợp theo quy định của pháp luật.
Trợ giúp viên pháp lí là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lí nhà nước, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp thẻ trợ giúp viên pháp lí theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp, tham gia tố tụng với tư cách đại diện hợp pháp của người bị tam giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa[4].
Để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội trong những trường hợp do pháp luật quy định, nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ, trung tâm trợ giúp pháp lí nhà nước cử trợ giúp viên pháp lí, yêu cầu luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lí hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình trong những trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 76 BLTTHS năm 2015 về chỉ định người bào chữa.
Người đại diện của người bị buộc tội là cá nhân cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội là người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi. Người đại diện của người bị buộc tội có thể là cha, mẹ, người giám hộ của họ. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho pháp nhân.
Để đảm bảo sự vô tư, khách quan của người bào chữa trong quá trình tố tụng, đảm bảo hiệu quả của bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định các trường hợp không được tham gia bào chữa gồm: người đã tiến hành tố tụng vụ án đó, người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc[5]. Đồng thời BLTTHS năm 2015 cũng đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tại Điều 73 để giúp cho người bào chữa thực hiện được một cách tốt nhất vai trò của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Hai quyền này có thể song song tồn tại mà không loại trừ lẫn nhau. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa đồng thời có quyền nhờ người bào chữa. Trong trường hợp nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa.
Thứ hai, luật tố tụng hình sự không chỉ quy định người bị buộc tội có quyền bào chữa mà còn quy định những bảo đảm cần thiết để quyền bào chữa được thực hiện. Cụ thể như họ phải được giao nhận quyết định khởi tố, bản kết luận điều tra sau khi kết thúc điều tra, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử... để chuẩn bị bào chữa. Trong quá trình bào chữa họ có thể sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội như trình bày lời khai, trình bày ý kiến; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá...
Thứ ba, không chỉ quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Điều 16 BLTTHS năm 2015 còn quy định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Điều này thể hiện Nhà nước không chỉ coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 62 BLTTHS năm 2015 thì "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra". Đồng thời cũng quy định "Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự" tại điểm g khoản 1 Điều 4.
Bị hại, đương sự có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cũng có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể là luật sư, người đại diện, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lí[6].
Khi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có các quyền như: Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; yêu cầu giám định, định giá tài sản; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa, xem biên bản phiên tòa...[7]. Đồng thời cũng có những nghĩa vụ quan trọng là sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án và giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại khoản 4 Điều 84 BLTTHS năm 2015.
Thứ tư, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa; bảo đảm cho bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật. Ở mỗi giai đoạn tố tụng, trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là khác nhau cả về nội dung và mức độ. Các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc tạo điều kiện cho người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc đúng với quy định của pháp luật và hiệu quả, khách quan nhất.
Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M
[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 48.
[2] Nguyễn Thái Phúc, Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 1999, tr.22.
[3] Khoản 3 Điều 72 BLTTHS năm 2015.
[4] Điều 21 Luật trợ giúp pháp lí năm 2006.
[5] Khoản 4 Điều 72 BLTTHS năm 2015.
[6] Khoản 1, khoản 2 Điều 84 BLTTHS năm 2015.
[7] Xem khoàn 3 Điều 84 BLTTHS năm 2015.