0240.73088281
Logo

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Ngoài cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự, còn có các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia vào vụ việc dân sự. Những người này được gọi là người tham gia TTDS. Người tham gia TTDS là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ tòa án, cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự[1]. Trong số những người tham gia TTDS thì không thể không kể đến người đại diện của đương sự. Vậy cụ thể pháp luật hiện nay quy định như thế nào về người đại diện của đương sự trong TTDS, cũng như thực tiễn thực hiện các quy định ấy hiện nay ra sao?

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 106.

I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người đại diện của đương sự trong TTDS.

Trong TTDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, các đương sự thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy vậy, trong một số trường hợp người khác có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Người tham gia TTDS này được gọi là người đại diện của đương sự. Như vậy, người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước tòa án[1].

Người đại diện của đương sự sẽ có 3 đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, người đại diện của đương sự là cá nhân hoặc pháp nhân có đủ năng lực hành vi TTDS. Khi đương sự không thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình, người đại diện này phải có được năng lực về hành vi tố tụng và đủ khả năng trong nhận thức đề thực hiện được hết tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại diện để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự của mình.

Thứ hai, người đại diện là người nhân danh, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Khi đại diện của đương sự được xác lập theo phương thức đại diện theo ủy quyền, thì theo quy định này người đại diện luôn nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.

Thứ ba, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được khách quan trong một số trường hợp hạn chế đại diện ủy quyền. Đó là đối với những cán bộ, công chức các ngành tòa án, kiểm sát, công an, pháp luật không cho phép họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền bởi việc họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Từ đó, công tác xét xử và đưa ra phán quyết của tòa án có thể không được chính xác, khách quan. 

Người đại diện của đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự có một ý nghĩa rất lớn:

Thứ nhất, việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi TTDS.

Thứ hai, việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.

II. Pháp luật hiện hành về người đại diện của đương sự trong TTDS.

1. Quy định về các loại đại diện trong TTDS.

Căn cứ vào Điều 85 và Điều 88 BLTTDS 2015, người đại diện được chia ra thành 2 loại sau: Đại diện theo pháp luật và Đại diện theo ủy quyền.

Người đại diện theo pháp luật do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật trong TTDS của người được bảo vệ.

Người đại diện theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản như hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền.

Khi tiến hành TTDS, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của BLTTDS thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.

2. Quy định về điều kiện trở thành người đại diện của đương sự trong TTDS.

Căn cứ Điều 85 BLTTDS 2015 quy định về người đại diện của đương sự, điều kiện để trở thành người đại diện của đương sự bao gồm:

- Người đại diện là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS.

- Người đại diện của đương sự phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi TTDS.

Ngoài ra căn cứ Điều 87 BLTTDS 2015 quy định về những trường hợp không được làm người đại diện. Những chủ thể thuộc các quy định tại điều trên thì không đủ điều kiện và không được phép trở thành người đại diện trong TTDS.

3. Quy định về phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự.

1.1.  Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật.

Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật là phạm vi những lĩnh vực của quan hệ pháp luật nội dung phát sinh quan hệ TTDS của đương sự mà người đại diện được tham gia tố tụng nhân danh đương sự. Như đối với đương sự là cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, họ không thể nhận thức và kiểm soát hành vi, đồng nghĩa với việc họ không có khả năng tham gia bất kì quan hệ pháp luật TTDS nào và khi đó người mà thay mặt họ tham gia tất cả các quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh sẽ là người đại diện theo pháp luật của họ.

Trong một mối quan hệ nhân thân điển hình như hôn nhân, pháp luật hôn nhân

và gia đình hiện hành vẫn cho phép cha, mẹ, người thân thích của vợ, chồng đại diện cho người vợ, chồng đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ như trong quy định tại khoản 2 điều 51 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

  Đối với trường hợp là cá nhân, đương sự chưa đủ điều kiện về năng lực chủ thể tham gia tố tụng, lĩnh vực của quan hệ pháp luật nội dung không liên quan đến quyền nhân thân nhưng không yêu cầu phải có sự trợ giúp của người đại diện, đó là trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 69 BTLTTDS năm 2015. Trong trường hợp này, khi đương sự mặc dù chưa đảm bảo một cách đầy đủ năng lực chủ thể tham gia mọi giao dịch dân sự nhưng trong một số giao dịch họ đã có khả năng xác lập, thực hiện theo quy định của pháp luật thì về cơ bản có thể tự mình tham gia tố tụng để bảo vệ mình khi phát sinh những quan hệ TTDS từ các giao dịch dân sự họ tự mình tham gia. Do đó nếu khẳng định đây là một giới hạn về phạm vi tham gia tố tụng đối với người đại diện cũng không hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên, người đại diện vẫn được “dự bị” trong những trường hợp cần thiết vì tuy họ đã có thể tự quyết trong một số quan hệ dân sự nhất định, nhưng năng lực hành vi tố tụng của họ chưa thực sự hoàn thiện nên việc tham gia tố tụng vẫn khó có thể đạt hiệu quả cao.

  Đối với trường hợp đương sự là tổ chức, cơ quan – một chỉnh thế mang tính chất cộng đồng. Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức là người được cử ra theo quy định của pháp luật, thay mặt cho cơ quan, tổ chức tham gia quan hệ tố tụng phát sinh từ các quan hệ dân sự mà họ đã đại diện.

  3.2. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền.

  Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS mà pháp luật cho phép đương sự được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng thay mình nếu họ muốn. Tuy nhiên, không phải tất cả các quan hệ pháp luật đều có thể ủy quyền thay được, cụ thể là những quan hệ liên quan đến quyền nhân thân.

  Theo khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015, giải quyết việc ly hôn là hoạt động tố tụng liên quan trực tiếp đến quyền nhân thân của đương sự, đương sự sẽ phải tự mình thể hiện ý chí về việc có tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của chính mình.

 Từ BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 đến BLTTDS 2015 đều chỉ loại trừ việc ly hôn ra khỏi phạm vi tố tụng của người đại diện theo ủy quyền, mà không có đề cập đến những trường hợp vụ việc liên quan đến những quyền nhân thân khác.

  3.3 Vượt quá phạm vi đại diện và hậu quả pháp lý.

  Pháp luật TTDS hiện hành không quy định về vấn đề này nhưng căn cứ vào quy định về phạm vi đại diện nêu trên cũng như pháp luật dân sự về vấn đề này, có thể thấy rằng: người đại diện của đương sự chỉ có quyền, nghĩa vụ trong phạm vi đại diện được pháp luật quy định hoặc được hợp đồng ủy quyền xác định.

Nếu người đại diện của đương sự có hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cho đương sự; đồng thời phải bồi thường thiệt hại nếu hành vi đó gây thiệt hại cho các chủ thể khác.

2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự.

4.1. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

     Người đại diện theo pháp luật trong TTDS thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện (Điều 86 BLTTDS 2015). Bởi tính cần thiết của sự tham gia của người đại diện theo pháp luật của đương sự nên sự thay mặt của người đại diện theo pháp luật gần như tuyệt đối với đương sự. Điều đó có nghĩa người đại diện theo pháp luật của đương sự có gần như tất cả quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Quyền tố tụng của người đại diện theo pháp luật của đương sự nói chung được quy định tại Điều 70 BLTTDS năm 2015.

Quyền hòa giải vụ án ly hôn của đương sự thì người đại diện theo pháp luật không thể thay mặt đương sự thực hiện hoà giải vụ án ly hôn tại toà án theo Điều 207 BLTTDS. Sở dĩ đây là quyền nhân thân của đương sự vừa là quyền đòi hỏi trong quá trình thực hiện đương sự phải bày tỏ ý chí, mong muốn cá nhân của mình. Vì mặc dù là người đại diện là người thân của đương sự cũng không thể đảm bảo thể hiện hoàn toàn những mong muốn của đương sự được. Không những vậy quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hôn nhân của đương sự, vì vậy người đại diện không thể đưa ra ý kiến chủ quan hoà giải thay đương sự.

Theo Điều 56 BLTTDS quy định: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Nên xét về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự có những trường hợp sau:

Trường hợp lầm người đại diện cho nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật ngoài những quyền và nghĩa vụ nêu trên còn được hưởng các quyền và nghĩa vụ riêng của nguyên đơn, theo Điều 71 BLTTDS.

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền, nghĩa vụ sau đây:

a) Các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70 của Bộ luật này;

b) Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn……4 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 72 của Bộ luật này.”

Khi tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của đương sự, người đại diện theo pháp luật trước hết phải thực các quyền và nghĩa vụ chung đối với đương sự và tùy vào vị trí tố tụng của đương sự mình làm đại diện để thực hiện những quyền, nghĩa vụ tố tụng riêng biệt đối với vị trí đó của đương sự.

4.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền.

 "Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền" (Điều 86 BLTTDS 2015).

   Nguyên tắc nền móng và xuyên suốt quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS là nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Bất cứ khi nào đương sự thấy cần trợ giúp bởi người khác, đương sự có thể ủy quyền cho bất kỳ người nào đương sự tin tưởng, nhờ cậy người đó thực hiện toàn bộ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình hoặc chỉ ủy quyền một phần.

   Do vậy, tùy vào giai đoạn tố tụng mà người đại diện theo ủy quyền được tham gia, phạm vi đại diện được ủy quyền mà người đại diện theo ủy quyền có được những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau.

   Người đại diện của đương sự chỉ được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi đại diện được ủy quyền đã được ghi nhận trong văn bản ủy quyền. Nếu người đại diện vượt quá phạm vi đại diện thì họ có thể phải gánh hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi vượt quá phạm vi đại diện của mình. Việc xác định hậu quả

pháp lý đối với hành vi vượt quá phạm vi đại diện xác định theo nguyên tắc sau:

   1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: Người được đại điện đồng ý; Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.

   2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.

  3. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp người được đại diện đồng ý đối với việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện.

   4. Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.Trong trường hợp đương sự ủy quyền toàn bộ quyền và nghĩa vụ tố tụng cho người đại diện, vẫn không loại bỏ hoàn toàn sự tham gia tố tụng của đương sự. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án vẫn có thể triệu tập đương sự cùng tham gia tố tụng với người đại diện, hay chính bản thân đương sự thấy cần thiết phải tham gia tố để bổ sung cho hoạt động của người đại diện thì họ vẫn có thể tụng tham gia tố tụng.

5. Các quy định về chấm dứt đại diện.

5.1. Chấm dứt đại diện theo pháp luật[2].

Được quy định tại khoản 4 Điều 140 BLDS năm 2015 và là sự kế thừa toàn bộ từ BLDS năm 2005. Người được đại diện là chủ thể đặt ra đòi hỏi cần được đại diện, do vậy khi đối tượng này chấm dứt sự tồn tại của mình, đòi hỏi người đại diện sẽ biến mất và không cần phải tồn tại để thực hiện hoạt động đại diện kia. Trong trường hợp này, khi quan hệ đại diện chấm dứt, người đại diện mất tư cách đại diện của đương sự, không còn các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự, không được tham gia tố tụng với tư cách của đương sự đã chết.

 Trường hợp người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự được khôi phục, quan hệ đại diện chấm dứt do đương sự đã tự mình nhận thức và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Sau khi quan hệ đại diện chấm dứt, người đại diện mất tư cách đại diện, không có quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự.

Một số căn cứ chấm dứt khác làm quan hệ đại diện theo pháp luật cho đương sự như hoàn thành nhiệm vụ đại diện đối với những trường hợp người đại diện trong những vụ việc cụ thể như trường hợp người đại diện do Tòa án chỉ định hay trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Những trường hợp này, người đại diện chỉ đứng ra làm người đại diện trong một vụ việc cụ thể, khi vụ việc được giải quyết xong, chấm dứt tố tụng thì tư cách đại diện cũng đồng thời chấm dứt.                                                                                                                                                                                                                          

5.2. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền.

Đại diện theo ủy quyền có tính chất của một hợp đồng có đối tượng là công việc phải thực hiện. Như vậy, cũng như các hợp đồng có đối tượng công việc phải thực hiện khác, trong các trường hợp: theo thỏa thuận; thời hạn ủy quyền đã hết; công việc được ủy quyền đã hoàn thành; người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền; người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại; người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 BLDS; căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được (Điều 89 BLTTDS năm 2015, Khoản 3 Điều 140 BLDS năm 2015).

Như vậy, pháp luật cho phép chấm dứt tư cách người đại diện theo ủy quyền căn cứ theo ý chí của một bên trong quan hệ ủy quyền. Đơn phương đình chỉ hợp đồng là thể hiện ý chí của một bên trong việc chấm dứt hợp đồng. Chỉ cần thể hiện bằng văn bản việc chấm dứt hợp đồng ủy quyền là được Tòa án chấp nhận. Trong nhiều trường hợp, việc thể hiện ý chí này không nhất thiết phải lập thành văn bản.

Bên cạnh đó, khi hợp đồng ủy quyền là hợp đồng có đền bù thì việc thanh toán tiền trong thỏa thuận theo hợp đồng, nếu ủy quyền có thù lao thì bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên ủy quyền, nếu có (Khoản 2 Điều 569 BLDS năm 2015).

5.3. Hậu quả pháp lý của chấm dứt đại diện[3].

Đại diện theo pháp luật của cá nhân được xác lập trong trường hợp cá nhân đó không có năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ. Vì thế, trường hợp đại diện theo pháp luật chấm dứt mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó có quyền tự mình tham gia TTDS hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia TTDS. Tương tự trong các trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền theo quy định tại Điều 89 BLTTDS năm 2015 thì đương sự, người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia TTDS.

III. Đánh giá, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự.

1. Đánh giá quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự.

1.1. Ưu điểm.

Trải qua một thời gian áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện cho đương sự, chúng ta đã đạt được những thành tựu, hiệu quả rõ rệt: 

Thứ nhất, trong những năm gần đây, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện của đương sự thực hiện tốt những công việc của mình. Vì vậy, người đại diện có cơ hội thực hiện khá tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ từ quyền khởi kiện, quyền phản đối, rút đơn khởi kiện, tham gia phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. 

Thứ hai, số lượng người đại diện cho đương sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sư ngày càng tăng và có tính chuyên nghiệp hơn. Thông thường là hình thức đại diện theo ủy quyền với sự tham gia của Luật sư - những người tranh tụng chuyên nghiệp, nên chất lượng của bản án, quyết định của Tòa  án cũng được nâng cao. 

Thứ ba, việc thực hiện các quy định về người đại diện cho đương sự được thực hiện khá nghiêm túc. Tòa án cũng đã phối hợp, giúp đỡ góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện, kiểm tra, giám sát các quy định về người đại diện của đương sự. 

1.2. Hạn chế.

Bất cập đầu tiên, về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự. Trên thực tế, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện vẫn gặp nhiều khó khăn do một số nguyên nhân sau: 

 Thứ nhất, do thủ tục hành chính còn rườm rà, thói quan liêu, cửa quyền, yêu sách về giấy tờ thủ tục còn tồn tại không ít ở một số địa phương, gây khó khăn cho người đại diện thực hiện nhiệm vụ của mình. 

Thứ hai, quyền tiếp cận với chứng cứ của vụ việc của đại diện còn hạn chế. Tuy được quy định tại khoản 7 Điều 70 BLTTDS 2015 nhưng trên thực tế, quyền này vẫn còn mang tính hình thức. 

Thứ ba, quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, quyền tranh luận ở phiên tòa còn mang tính hình thức, Tòa án chỉ nghe như thủ tục, không quan tâm. 

Thứ tư, về phía người đại diện còn chưa nhận thức đúng vai trò của mình, thực hiện không hết nghĩa vụ hoặc sai phạm trong thực hiện nghĩa vụ như: không có mặt đúng giờ, vắng mặt, không tuân thủ nội dung phiên tòa, tranh tụng kiểu mắng chửi bên kia…

Bất cập thứ hai, xét về nội dung khoản 6 Điều 272 BLTTDS 2015 là quy định hoàn toàn mới, trong trường hợp này văn bản ủy quyền có nội dung ủy quyền cho người được ủy quyền được toàn quyền giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp thì bên được ủy quyền có được quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm hay không và khi thực hiện quyền kháng cáo có phải lập văn bản ủy quyền theo nội dung quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS nêu trên hay không? Về vấn đề này, hiện nay đang các tòa sẽ khác nhau sẽ xem xét và thực hiện khác nhau theo hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc ủy quyền giữa các bên là ủy quyền toàn quyền quyết định việc giải quyết vụ án ở Tòa án nhân dân các cấp với thời hạn thỏa thuận là cho đến khi giải quyết xong vụ án. Do đó, giữa các bên không phải làm lại văn bản ủy quyền kháng cáo.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Với quy định tại khoản 6 Điều 272 BLTTDS 2015 thì đương sự muốn ủy quyền kháng cáo phải làm văn bản ủy quyền kháng cáo vì người được ủy quyền chỉ được quyền kháng cáo khi trong văn bản ủy quyền ghi rõ nội dung người ủy quyền ủy quyền cho người được ủy quyền kháng cáo.

Với quy định trên vẫn còn nhiều nhiều quan điểm trái chiều, dẫn đến việc người đại diện của đương sự theo ủy quyền khó khăn trong việc làm đơn kháng cáo, họ không biết nên theo ý kiến quan điểm của tòa mình đang xét xử như thế nào sẽ hợp lý. Dẫn đến tình trạng đơn kháng cáo không hợp yêu cầu, mất thời gian của hai bên.

Bất cập thứ ba, xét cả hai điều là Điều 85 Luật TTDS 2015 và theo khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 quy định về người đại diện nhưng khi trợ giúp viên pháp lý tham gia quá trình tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì không được coi là người đại diện. Việc quy định pháp luật không rõ ràng về từng chủ thể có thể đại diện hợp pháp đã dẫn đến việc đương sự nhầm lẫn về việc người đại diện hợp pháp của mình.

2. Kiến nghị hoàn hiện.

Trên cơ sở phân tích ở trên, một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động đại diện cho đương sự trong TTDS như sau: 

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS: Trong đó cần xác định rõ thẩm quyền chỉ định người đại diện cho đương sự: do ai thực hiện việc chỉ định, tiêu chuẩn, điều kiện của người được chỉ định, cách giải quyết khi có tranh chấp, phản đối người đại diện được Tòa án cử. Đồng thời cũng cần bổ sung thêm các trường hợp Tòa phải cử người đại diện cho đương sự. Như trường hợp đương sự vắng mặt, không có tin tức hoặc mất năng lực hành vi dân sự mà không có người đại  diện theo pháp luật (kể cả trường hợp có người đại diện theo pháp luật mà người này thuộc trường hợp không được đại diện). Cần sửa đổi bổ sung về quyền và nghĩa vụ của người đại diện một cách thực tế hơn, tránh những quy định mang tính hình thức, không thực hiện được. Đồng thời cũng có cơ chế nâng cao tinh thần trách nhiệm của người đại diện trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, tránh trường hợp làm việc thờ ơ, đối phó, không hết mình mà điển hình nhất là ở đại diện Tòa án chỉ định. Tuy nhiên theo Điều 88 BLTTDS 2015 vẫn chưa quy định rõ ràng các tiêu chuẩn đối với người đại diện được chỉ định.

Thứ hai, cần có sự phân biệt giữa người đại diện và người được đại diện trong TTDS: Theo quy định tại khoản 1 Điều 74 BLTTDS thì người đại diện theo pháp luật trong TTDS thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự mà mình đại diện và theo quy định tại các khoản 4, 5 Điều 57 BLTTDS thì nếu đương sự là người chưa đủ 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Vì vậy, người đại diện theo pháp luật có toàn quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho người được đại diện, kể cả về quan hệ nhân thân. Trong trường hợp này, bản án phải ghi rõ người được đại diện là nguyên đơn, còn người đã thực hiện hành vi khởi kiện vì lợi ích của nguyên đơn thì phải ghi họ là người đại diện cho nguyên đơn, chứ không phải như một số bản án đã ghi người đại diện là nguyên đơn.

Như vậy, về cơ bản pháp luật đã có những quy định cụ thể, rõ ràng đối với người đại diện của đương sự trong TTDS. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện các quy định trên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện quyền của người đại diện của đương sự. Do đó, cần phải có những giải pháp khắc phục tình trạng trên. Việc coi trọng và thực hiện đúng đắn các quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án dân sự được công bằng, khách quan, nâng cao niềm tin của người đối với cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động TTDS nói riêng.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 115.

[2] Ngô Thị Lộc, Ts. Bùi Thị Huyền hướng dẫn, Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự : luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2016.

[3] PGS. TS Hà Thị Mai Hiên, TS. Trần Văn Biên, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2012.

Các tin khác