0240.73088281
Logo

Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch dân sự diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng và khai thác giá trị tài sản nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế của mỗi cá nhân cũng như của cả xã hội, pháp luật Việt Nam và nhiều nước trên thế giới cho phép việc sử dụng một tài sản để bảo đảm nhiều nghĩa vụ khác nhau để có thể tiếp cận cùng lúc nhiều khoản vay. Điều này dẫn tới nhiều tranh chấp về quyền lợi giữa các chủ nợ bảo đảm và trong nhiều trường hợp, tài sản bảo đảm không đủ giá trị để thanh toán tất cả các khoản vay của bên vay. Chính vì vậy, nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi của chủ nợ bảo đảm, đồng thời xác lập quyền ưu tiên thanh toán, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các biện pháp bảo đảm có thể phát sinh hiệu lực đối kháng khi đáp ứng được các yêu cầu luật định.

1. Khái niệm, đặc điểm hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

1.1. Khái niệm hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

Biện pháp bảo đảm có bản chất là một thỏa thuận có hiệu lực giữa hai chủ thể (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm), nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhất định. Khi có sự vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm, bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên bảo đảm giao tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ. Việc yêu cầu bên bảo đảm giao tài sản sẽ được thực hiện dễ dàng nếu tài sản bảo đảm được nằm trong sự quản lý của bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, nếu tài sản bảo đảm vẫn thuộc sự quản lý của bên bảo đảm, có khả năng bên nhận bảo đảm sẽ cố tình chuyển giao tài sản bảo đảm cho người thứ ba nhằm trốn tránh nghĩa vụ bàn giao tài sản bảo đảm. Lúc này, bên nhận bảo đảm không thể yêu cầu người thứ ba bàn giao tài sản bảo đảm cho mình bởi lẽ thỏa thuận biện pháp bảo đảm chỉ có hiệu lực ràng đối với các chủ thể của giao dịch bảo đảm (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) chứ không có hiệu lực ràng buộc với chủ thể thứ ba không phải chủ thể của giao dịch bảo đảm. Trong trường hợp này, bên nhận bảo đảm sẽ đứng trước rủi ro rất lớn và không thể thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình do không thể đòi lại tài sản bảo đảm từ người thứ ba. Nhằm khắc phục tình trạng đó, pháp luật Việt Nam quy định trong một số trường hợp, các biện pháp bảo đảm không chỉ phát sinh hiệu lực đối với những chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ bảo đảm (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) mà còn phát sinh hiệu lực và có giá trị pháp lý đối với cả người thứ ba không phải là chủ thể trong quan hệ bảo đảm. Hiệu lực ràng buộc của biện pháp bảo đảm đối với người thứ ba không phải là chủ thể trong quan hệ bảo đảm chính là “hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm”.

Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm thực chất không phải là một quy định hoàn toàn mới trong BLDS 2015 mà chỉ mới về cách sử dụng thuật ngữ.[1] Nội dung, bản chất của vấn đề này đã được quy định tại khoản 3 Điều 323 BLDS 2005: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba tại thời điểm đăng ký” và khoản 1 Điều 11 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định: “Giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Thời điểm đăng ký được xác định theo quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm”. Như vậy, BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn đã sử dụng thuật ngữ “giá trị pháp lý đối với người thứ ba” để chỉ hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm. Khi BLDS 2015 có hiệu lực, các nhà làm luật đã thay đổi cách sử dụng thuật ngữ, theo đó, BLDS 2015 và các văn bản hướng dẫn đã sử dụng thuật ngữ “hiệu lực đối kháng với người thứ ba” để chỉ hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm.

Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được quy định tại Điều 297 BLDS 2015 như sau: “Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản; Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi; Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan ”. Có thể thấy, mặc dù có cách sử dụng thuật ngữ khác nhau, song Điều 297 BLDS 2015 vẫn tiếp tục kế thừa quy định về hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm trong BLDS 2005, đồng thời có sự mở rộng hơn về thời điểm và căn cứ phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm cũng như phạm vi quyền của bên nhận bảo đảm trong các biện pháp bảo đảm có phát sinh hiệu lực đối kháng. Vấn đề về căn cứ phát sinh hiệu lực đối lực đối kháng của biện pháp bảo đảm và phạm vi quyền của bên nhận bảo đảm trong các biện pháp bảo đảm có phát sinh hiệu lực đối kháng sẽ được người viết phân tích chi tiết hơn ở các phần tiếp theo của khóa luận. 

1.2. Đặc điểm hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm luôn xuất hiện song song với một quan hệ nghĩa vụ. Như đã đề cập, do mục đích để đảm bảo cho một nghĩa vụ được thực hiện nên biện pháp bảo đảm cũng như hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm luôn đi kèm với một quan hệ nghĩa vụ, nói cách khác không có quan hệ nghĩa vụ thì cũng không có biện pháp bảo đảm và cũng không tồn tại hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm.

Thứ hai, hiệu lực đối kháng chỉ phát sinh đối với các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản, bởi lẽ, khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng thì thực chất biện pháp bảo đảm đã thiết lập một vật quyền (gọi là vật quyền bảo đảm). Vật quyền cho phép chủ thể trực tiếp chi phối và khai thác công dụng, lợi ích mà vật đem lại để thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Sự chi phối, khai thác công dụng và hưởng lợi này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí đơn thuần của chủ thể mang quyền, không phụ thuộc vào bất kỳ sự tác động trung gian của chủ thể nào khác.

Thứ ba, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm bảo vệ triệt để quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm cũng như bảo đảm quyền lợi của người thứ ba không phải chủ thể của giao dịch bảo đảm. Khi hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được thiết lập công khai (thông qua đăng ký hoặc chiếm giữ tài sản) trên tài sản bảo đảm thì người thứ ba không phải là chủ thể của giao dịch bảo đảm phải tôn trọng các quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm, “chấp nhận” rằng bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi tài sản cũng như có sự ưu tiên hơn cả đối với giá trị kinh tế của tài sản. Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm cũng bảo đảm quyền của người thứ ba không phải chủ thể của giao dịch bảo đảm bởi lẽ, việc một người xác lập giao dịch có đối tượng là tài sản đã được thiết lập hiệu lực đối kháng đồng nghĩa với việc họ phải chịu bất lợi hơn so với bên nhận bảo đảm về thứ tự ưu tiên thanh toán, trong nhiều trường hợp sự bất lợi này có thể khiến họ phải gánh chịu rủi ro hoặc thiệt hại tài sản. Chính vì vậy, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm có thể được xem như là lời “cảnh báo” đối với người thứ ba về rủi ro mà họ có thể phải gánh chịu, là cơ sở để họ cân nhắc khi xác lập giao dịch dân sự có đối tượng là tài sản đã được thiết lập hiệu lực đối kháng.

2. Mối quan hệ giữa hiệu lực của biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

Trước hết, cần xác định hiệu lực của biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm là hai vấn đề khác nhau. Có thể hiểu, hiệu lực của biện pháp bảo đảm là giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm đối với các bên trong giao dịch bảo đảm, bao gồm bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Trong khi đó, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm là giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm đối với người thứ ba không phải chủ thể của giao dịch bảo đảm. 

Mặc dù hiệu lực của biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm là hai vấn đề khác nhau, tuy nhiên lại có mối quan hệ mật thiết.[2] Mối quan hệ giữa hiệu lực của biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được thể hiện như sau:

Thứ nhất, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào hiệu lực của biện pháp bảo đảm. Xét về thứ tự xác lập thì hiệu lực của biện pháp bảo đảm được xác lập trước, hiệu lực đối kháng được xác lập sau trên cơ sở hiệu lực của biện pháp bảo đảm. Hiệu lực của biện pháp bảo đảm là tiền đề để xác lập hiệu lực đối kháng, nếu biện pháp bảo đảm không đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực thì không đặt ra vấn đề xác lập hiệu lực đối kháng. Nội dung này mới đây đã được ghi nhận trong pháp luật dân sự Việt Nam. Cụ thể, khoản 1, Điều 23 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quy định như sau: “Biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp luật”. Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải biện pháp bảo đảm nào phát sinh hiệu lực cũng phát sinh hiệu lực đối kháng. Như đã đề cập ở phần trước, chỉ các biện pháp bảo đảm đối vật mới phát sinh hiệu lực đối kháng. Theo quy định tại Điều 292 BLDS 2015, pháp luật Việt Nam ghi nhận 9 biện pháp bảo đảm, trong đó có 7 biện pháp bảo đảm đối vật bao gồm: Cầm cố; Thế chấp; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu và Cầm giữ tài sản. Trước đây, theo quy định của BLDS 2015 chỉ có 4 biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng, đó là: Cầm cố; Thế chấp; Bảo lưu quyền sở hữu và Cầm giữ tài sản. Chính vì vậy, trước đây khi đề cập tới hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm, các học giả nghiên cứu luật học chỉ đề cập tới 4 biện pháp bảo đảm nêu trên. Tuy nhiên, Nghị định 21/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định thi hành Bộ lụât Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực từ ngày 15 tháng 5 năm 2021 đã ghi nhận hiệu lực đối kháng của 3 biện pháp bảo đảm đối vật còn lại là: Đặt cọc, Ký cược và Ký quỹ.

Thứ hai, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm có vai trò bổ sung, hoàn thiện cho hiệu lực của biện pháp bảo đảm tạo ra cơ chế bảo vệ triệt để quyền lợi của bên nhận bảo đảm. Cụ thể, khi các bên trong quan hệ nghĩa vụ thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm thì hiệu lực của biện pháp bảo đảm sẽ ràng buộc các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Một tài sản nhất định sẽ được chỉ định là tài sản bảo đảm, trong trường hợp bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm có thể tự bảo đảm quyền lợi của mình bằng việc yêu cầu bên bảo đảm bàn giao tài sản bảo đảm và xử lý tài sản đó nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Khi đó, hiệu lực biện pháp bảo đảm đã bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong quan hệ với bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, việc bảo đảm quyền lợi giữa các bên trong giao dịch là không đủ để bảo vệ bên nhận bảo đảm khỏi rủi ro phát sinh từ giao dịch. Trên thực tế, sẽ xảy ra trường hợp bên bảo đảm bán tài sản bảo đảm cho người thứ ba nhằm trốn tránh nghĩa vụ. Lúc này, bên nhận bảo đảm không thể lấy lại tài sản bảo đảm từ bên thứ ba, bởi lẽ hiệu lực của biện pháp bảo đảm chỉ có giá trị pháp lý và ràng buộc nghĩa vụ đối với các bên trong giao dịch bảo đảm. Trong trường hợp này, để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, bên nhận bảo đảm chỉ có thể khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bên bảo đảm bồi thường thiệt hại, tuy nhiên quá trình này lại tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí của bên nhận bảo đảm, hơn nữa lúc này, để bảo vệ quyền lợi của mình, bên nhận bảo đảm phải phụ thuộc vào việc bồi thường của bên bảo đảm mà không được tự mình thực hiện các quyền đó thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực của biện pháp bảo đảm không thể bảo vệ được quyền lợi của bên nhận bảo đảm trong tranh chấp với chủ thể thứ ba. Chính vì vậy, nhằm bảo vệ bên nhận bảo đảm khỏi rủi ro tài sản được chuyển giao cho bên thứ ba, hiệu lực đối kháng với người thứ ba cho phép bên nhận bảo đảm đòi lại tài sản bảo đảm ngay cả khi tài sản đã được chuyển giao cho chủ thể thứ ba, hay nói cách khác hiệu lực của biện pháp bảo đảm đã được mở rộng và áp dụng với những chủ thể không phải là một bên trong giao dịch bảo đảm. Có thể thấy, hiệu lực của biện pháp bảo đảm là công cụ bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm trong quan hệ đối với bên nhận bảo đảm, còn hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm là công cụ bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm trong quan hệ với chủ thể thứ ba bên ngoài giao dịch bảo đảm, chúng kết hợp với nhau tạo nên cơ chế bảo vệ toàn diện và tối ưu quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm.

3. Nội dung hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

3.1. Thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

Như đã đề cập, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm có mối quan hệ mật thiết với hiệu lực của biện pháp bảo đảm, hiệu lực đối kháng chỉ phát sinh khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, có thể khẳng định hiệu lực của biện pháp bảo đảm là điều kiện cần để phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm. Về mặt lý luận, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực khi biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực, vì vậy khi nghiên cứu về thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm, trước hết cần xem xét tới thời điểm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm.

Do tính chất của các biện pháp bảo đảm là không giống nhau nên thời điểm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm cũng rất đa dạng, tuy nhiên nhìn chung, có hai thời điểm mà biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực: (i) thời điểm do các bên thỏa thuận; (ii) thời điểm do pháp luật quy định.

Thông thường, biện pháp bảo đảm sẽ phát sinh hiệu lực tại thời điểm do các bên thỏa thuận, tuy nhiên đối với các biện pháp bảo đảm có tài sản bảo đảm là tài sản đặc biệt, cần sự quản lý của nhà nước, pháp luật quy định biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực khi được đăng ký. Nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 như sau: “Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật định”. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm, việc đăng ký biện pháp bảo đảm là điều kiện để giao dịch có hiệu lực trong các trường hợp sau: (i) Thế chấp quyền sử dụng đất; (ii) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; (iii) Cầm cố tài sản tàu bay, thế chấp tàu bay; (iv) Thế chấp tàu biển. Bên cạnh các biện pháp bảo đảm có tài sản bảo đảm là tài sản đặc biệt, trong một số trường hợp, các bên trong giao dịch bảo đảm có thể thỏa thuận đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo quy định tại khoản 2, Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ, các biện pháp bảo đảm sau đây được đăng ký khi có yêu cầu: (i) Thế chấp tài sản là động sản; (ii) Thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; (iii) Bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong trương lai, mua bán tàu bay, tàu biển, mua bán tài sản là động sản khác có bảo lưu quyền sở hữu. Hiệu lực của các biện pháp bảo đảm được đăng ký được xác định như sau: (i) Trường hợp đăng ký tài sản bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ký; (ii) Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản là động sản, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu của biện pháp bảo đảm. Như vậy có thể khẳng định, nếu biện pháp bảo đảm có tài sản bảo đảm nằm ngoài 4 loại tài sản bắt buộc phải đăng ký quy định tại khoản 2, Điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP thì hiệu lực của biện pháp bảo đảm sẽ phát sinh do thỏa thuận của các bên trong giao dịch bảo đảm.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 297 BLDS 2015, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được xác lập, phát sinh trong hai thời điểm: (i) khi biện pháp bảo đảm được đăng ký; (ii) bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Kết hợp với thời điểm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm, có thể kết luận hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được phát sinh tại một trong các thờiđiểmsau:
Trường hợp 1: Hiệu lực đối kháng phát sinh cùng thời điểm biện pháp bảo đảm có hiệu lực. Hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm phải đăng ký thường phát sinh tại thời điểm này, bởi lẽ, việc đăng ký vừa là điều kiện để biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực pháp luật, vừa là điều kiện để biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng. Thông thường, thời điểm phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm và hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm là thời điểm nội dung đăng ký được ghi nhận và lưu vào sổ đăng ký hoặc được cập nhật vào cơ sở dữ liệu của biện pháp bảo đảm.

Trường hợp 2: Hiệu lực đối kháng phát sinh sau khi biện pháp bảo đảm có hiệu lực. Hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm không phải đăng ký hoặc có thể đăng ký khi có yêu cầu thường phát sinh tại thời điểm này. Thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng là thời điểm bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản.

3.2. Cơ quan thực hiện việc đăng ký các biện pháp bảo đảm

Đăng ký biện pháp bảo đảm là căn cứ phổ biến để hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm phát sinh. Hiện nay, vấn đề đăng ký biện pháp bảo đảm được quy định tại Nghị định số 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm. Như đã đề cập ở phần trước, việc đăng ký biện pháp bảo đảm chỉ đặt ra với các biện pháp bảo đảm có tài sản bảo đảm là tài sản đặc biệt, cần sự quản lý của Nhà nước, bao gồm: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; tàu bay và tàu biển. Chính vì vậy, các cơ quan thực hiện việc đăng ký biện pháp bảo đảm cũng là các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý các loại tài sản này. Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm, các cơ quan có thẩm quyền đăng ký biện pháp bảo đảm bao gồm: (i) Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay; (ii) Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục Hàng hải, Cảng vụ Hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải (gọi chung là Cơ quan đăng ký tàu biển Việt Nam) thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu biển; (iii) Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở tài nguyên và Môi trường (gọi chung là Văn phòng đăng ký đất đai) thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Bên cạnh những biện pháp bảo đảm phải đăng ký theo quy định của luật, đối với những tài sản được đăng ký theo thỏa thuận của các bên hoặc theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm thì Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư Pháp thực hiện đăng ký về biện pháp bảo đảm bằng động sản và tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan còn lại.

1.3.3. Phạm vi quyền của bên nhận bảo đảm của biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng

Khoản 2 Điều 297 BLDS 2015 quy định: “Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Điều 308 BLDS 2015 quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm, theo đó, biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba được ưu tiên thanh toán trước các biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm được xác lập thì bên nhận bảo đảm sẽ có 2 quyền chính: (i) Quyền truy đòi tài sản và (ii) Quyền ưu tiên thanh toán.

Hiện nay, có hai cách hiểu rất phổ biến về quyền truy đòi: thứ nhất, quyền truy đòi là quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch chuyển nhượng tài sản bảo đảm với lý do giao dịch được xác lập mà không có sự đồng ý của chủ nợ nhận bảo đảm; thứ hai: quyền truy đòi là quyền yêu cầu người đang nắm giữ tài sản trả tài sản để trở về tình trạng ban đầu.[3] Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học, hai cách hiểu này đều chưa đúng với bản chất của quyền. Theo tác giả, quyền truy đòi tài sản nên được hiểu là khi tài sản bảo đảm được chuyển giao cho người thứ ba không phải là một bên trong quan hệ bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền đòi lại tài sản bảo đảm từ người đó để đảm bảo quyền và lợi ích của mình.

Quyền ưu tiên thanh toán được áp dụng trong trường hợp tài sản bảo đảm được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ khác nhau. Trường hợp phải xử lý tài sản bảo đảm, nếu bên nhận bảo đảm có quyền ưu tiên thì số tiền có được từ việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ được ưu tiên để thanh toán cho nghĩa vụ của bên nhận bảo đảm trước những người có quyền khác. Ví dụ: Một tài sản được sử dụng để đảm bảo thực hiện cho hai nghĩa vụ: Nghĩa vụ đầu tiên, chủ nợ chỉ xác lập hiệu lực của biện pháp bảo đảm chứ không xác lập hiệu lực đối kháng và Nghĩa vụ thứ hai, chủ nợ xác lập cả hiệu lực của biện pháp bảo đảm lẫn hiệu lực đối kháng. Khi tài sản bảo đảm được xử lý thì người nhận bảo đảm của nghĩa vụ thứ hai được ưu tiên thanh toán trước vì đã xác lập hiệu lực đối kháng, do đó có quyền ưu tiên thanh toán trước chủ nợ đầu tiên.

3.4. Chấm dứt hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm

BLDS 2015 và các văn bản hướng dẫn không có quy định về chấm dứt hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm, tuy nhiên về mặt lý luận, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào hiệu lực của biện pháp bảo đảm, do đó khi biện pháp bảo đảm chấm dứt hiệu lực thì cũng đồng thời chấm dứt hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm. Vậy hiệu lực của biện pháp bảo đảm chấm dứt trong những trường hợp nào? Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về thời điểm chấm dứt biện pháp bảo đảm, tuy nhiên tổng hợp một số quy định pháp luật, người viết cho rằng biện pháp bảo đảm chấm dứt hiệu lực trong một số trường hợp sau:

Thứ nhất, biện pháp bảo đảm chấm dứt hiệu lực khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt. Biện pháp bảo đảm được xác lập với mục đích bổ sung cho nghĩa vụ chính, nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ, đảm bảo nghĩa vụ được thực hiện. Chính vì vậy, khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt, biện pháp bảo đảm không còn ý nghĩa nên cần phải chấm dứt theo.[4]

Thứ hai, biện pháp bảo đảm chấm dứt hiệu lực khi xóa đăng ký biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm mà việc đăng ký là điều kiện có hiệu lực sẽ chấm dứt hiệu lực khi xóa đăng ký biện pháp bảo đảm. Theo Điều 21 Nghị định 102/2017/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm, việc đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ bị xóa trong các trường hợp sau: (i) Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo đảm đã đăng ký bằng biện pháp bảo đảm khác; (ii) Thay thế toàn bộ tài sản bảo đảm bằng tài sản khác; (iii) Xử lý xong toàn bộ tài sản bảo đảm; (iv) Tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ, tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (v) Có bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật về việc hủy bỏ biện pháp bảo đảm, tuyên bố biện pháp bảo đảm vô hiệu; (vi) Đơn phương chấm dứt biện pháp bảo đảm hoặc tuyên bố chấm dứt biện pháp bảo đảm trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật; (vii) Xóa đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở trong trường hợp chuyển tiếp đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật; (viii) Cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng thừa phát lại đã kê biên, xử lý xong tài sản bảo đảm; (x) Theo thỏa thuận của các bên.

Bên cạnh các trường hợp chấm dứt hiệu lực đối kháng khi biện pháp bảo đảm chấm dứt hiệu lực, trong một số trường hợp, mặc dù biện pháp bảo đảm vẫn duy trì hiệu lực, tuy nhiên, hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm đã chấm dứt. Đó là khi căn cứ làm phát sinh hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm không còn, cụ thể như sau:

Thứ nhất, với những biện pháp bảo đảm mà việc đăng ký không phải là điều kiện phát sinh hiệu lực mà các bên có thỏa thuận đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm được đăng ký theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm thì hiệu lực đối kháng chấm dứt khi các bên xóa đăng ký biện pháp bảo đảm.

Thứ hai, với những biện pháp bảo đảm mà việc đăng ký không phải là điều kiện phát sinh hiệu lực nhưng là điều kiện để phát sinh hiệu lực đối kháng (ví dụ: biện pháp bảo lưu quyền sở hữu) thì hiệu lực đối kháng chấm dứt khi các bên xóa đăng ký biện pháp bảo đảm.

Thứ ba, với các biện pháp bảo đảm mà hiệu lực đối kháng phát sinh qua việc nắm giữ hoặc chiếm giữ thực tế (ví dụ: cầm giữ tài sản) thì hiệu lực đối kháng chấm dứt khi bên nhận bảo đảm hoặc người thứ ba không còn nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản đó nữa.

Trần Đức Minh - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Nguyễn Xuân Bình (2016), “Hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong Bộ luật Dân sự 2015”, Báo điện tử Công lý, link: https://congly.vn/hieu-luc-doi-khang-voi-nguoi-thu-ba-trong-bo-luat-dan-su-2015-142646.html, truy cập 20h ngày 13/03/2022.

[2] Nguyễn Hoàng Giang (2020), Hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện, Luận văn thạc sỹ Luật học, tr.17.

[3] Nguyễn Ngọc Điện (2020), “Góp ý xây dựng Nghị định quy định chi tiết về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 24/2020, link: http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210673/Gop-y-xay-dung-Nghi-dinh-quy-dinh-chi-tiet--ve-bien-phap-bao-dam-thuc-hien-nghia-vu.html truy cập 22h ngày 13/03/2022.

[4] Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam: Bản án và bình luận bản án (Tập 1), Nxb Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr877.

Các tin khác