0240.73088281
Logo

Đánh giá về căn cứ xác lập vật quyền theo quy định Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015

Chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản được ghi nhận lần đầu tiên trong BLDS Việt Nam năm 2015. Nguyên lý của hệ thống các vật quyền được xây dựng theo nguyên tắc mỗi quyền hướng tói một chủ thể độc lập, trong đó nhân vật trung là chủ sở hữu.[1] Theo đó, BLDS năm 2015 không có quy định chung mà chỉ quy định về các căn cứ xác lập đối với từng vật quyền cụ thể, bao gồm: Quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng và quyền bề mặt.

1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu theo quy định BLDS Việt Nam năm 2015

Theo quy định tại Điều 221 BLDS năm 2015, quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản dựa trên các căn cứ sau: (i) Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; (ii) Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác; (iii) Thu hoa lợi, lợi tức; (iv) Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; (v) Được thừa kế; (vi) Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên; (vii) Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định tại Điều 236 của BLDS năm 2015; (viii) Trường hợp khác do luật quy định.

Như vậy, so với Điều 171 BLDS Việt Nam năm 2005, căn cứ xác lập quyền sở hữu trong BLDS Việt Nam năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung nhất định. Đặc biệt, việc BLDS năm 2015 bổ sung trường hợp quyền sở hữu được xác lập “do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ” được coi là một trong những bổ sung quan trọng trước bối cảnh tài sản sở hữu trí tuệ hình thành ngày càng nhiều và cần được pháp luật công nhận, bảo vệ chặt chẽ hơn trên thực tế.

Đối với trường hợp xác lập quyền sở hữu theo Điều 222 BLDS năm 2015, có quan điểm cho rằng tài sản hình thành từ sản xuất, kinh doanh có thể chỉ thuộc sở hữu của người sử dụng lao động, còn người trực tiếp sản xuất là người lao động chỉ được hưởng lương hoặc tiền công. Vì vậy, Điều luật trên cần phải quy định lại theo hướng: “Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với thu nhập hợp pháp từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được thu nhập đó”.[2] Tuy nhiên, tác giả không đồng ý với quan điểm trên, bởi “người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp” trước hết vẫn phải có quyền sở hữu đối với tài sản mà họ tạo ra do lao động, sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Từ đó, thông qua các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá… mới tạo ra “thu nhập” và khi đó họ mới có quyền sở hữu đối với khoản thu nhập này. Vì vậy, tác giả cho rằng quy định tại Điều 222 vẫn cần được giữ nguyên và chỉ bổ sung thêm nội dung “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” để bao quát được đầy đủ các trường hợp phát sinh trên thực tế.

Ngoài ra, liên quan đến xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc và vật nuôi dưới nước, có quan điểm cho rằng được hưởng hoa lợi mà gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước mang lại trong thời gian chiếm hữu quy định trong BLDS Việt Nam năm 2015 không phải là hưởng dụng bởi người phát hiện trở thành chủ sở hữu hoa lợi mà gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước mang lại chứ không trở thành người hưởng dụng hoa lợi vì Điều 221 BLDS năm 2015 quy định “quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong trường hợp sau đây: Thu hoa lợi, lợi tức”.[3] Tuy nhiên, cách hiểu này chưa chuẩn xác bởi lẽ trường hợp người chiếm hữu gia súc, gia cầm thất lạc nếu trở thành chủ sở hữu của tài sản thì việc hưởng hoa lợi sinh ra không có gì đáng bàn. Vấn đề là họ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và trong thời gian họ chiếm hữu hợp pháp tài sản đó do đã thông báo công khai tìm chủ sở hữu thì họ được hưởng một nửa số gia súc được sinh ra hoặc toàn bộ hoa lợi do gia cầm sinh ra. Như vậy, trong thời gian chiếm hữu này, họ không phải là chủ sở hữu đối với tài sản mà mới chỉ thực hiện việc chiếm hữu đối tài sản đó.[4]

2. Căn cứ xác lập quyền đối với bất động sản liền kề theo quy định BLDS Việt Nam năm 2015

Căn cứ xác lập quyền đối với bất động sản liền kề là những sự kiện pháp lý xảy ra được dự liệu mà từ đó làm phát sinh quyền khai thác, sử dụng của chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc đối với bất động sản của chủ sở hữu khác. Theo quy định tại Điều 246 BLDS năm 2015: “Quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc”.

Như vậy, so với BLDS Việt Nam năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung trường hợp xác lập quyền đối với bất động sản liền kề do địa thế tự nhiên. Trên thực tế, địa thế tự nhiên đóng vai trò quan trọng và quyết định rất nhiều đến giá trị của bất động sản. Chính bởi các yếu tố tự nhiên nêu trên, để khai thác, sử dụng bình thường bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình, có những trường hợp chủ sở hữu phải sử dụng bất động sản liền kề thuộc quyền sở hữu của một chủ thể khác. Do đó, việc ghi nhận thêm căn cứ xác lập quyền đối với bất động liền kề do địa thế tự nhiên là vô cùng cần thiết và quan trọng trong thực tiễn đời sống.

Ngoài ra, BLDS năm 2015 cũng bổ sung căn cứ xác lập quyền đối với bất động sản liền kề theo di chúc phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản, bởi người lập di chúc là chủ sở hữu hợp pháp đối với di sản thừa kế nên họ được quyền lập di chúc cho chủ thể khác có quyền đối với bất động sản của họ.

3. Căn cứ xác lập quyền đối với quyền hưởng dụng theo quy định BLDS Việt Nam năm 2015

Theo quy định tại Điều 257 BLDS năm 2015, quyền hưởng dụng được xác lập dựa trên ba căn cứ bao gồm quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc. Việc quy định như trên của pháp luật dân sự Việt Nam là phù hợp với xu thế của pháp luật dân sự các nước, đồng thời đảm bảo được đầy đủ các căn cứ xác lập quyền hưởng dụng phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.[5]

Tuy nhiên, căn cứ xác lập quyền hưởng dụng do luật định vẫn đang bị bỏ ngỏ vì chưa có quy định của pháp luật cụ thể nào cho phép người nào đó được quyền hưởng dụng tài sản và cần có văn bản hướng dẫn vấn đề này trong thời gian tới.[6]

Đối với trường hợp quyền hưởng dụng xác lập theo thoả thuận sẽ có hai trường hợp, đó là thoả thuận có đền bù hoặc không có đền bù. Với những thoả thuận về xác lập quyền hưởng dụng không có đền bù, các chủ thể trong giao dịch thường là những người có quan hệ gần gũi, thân thiết nên BLDS năm 2015 cần quy định rõ phạm vi thực hiện quyền của chủ thể quyền hưởng dụng lúc này chỉ nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sống bình thường của họ. Còn với những giao dịch xác lập quyền hưởng dụng có đền bù, phạm vi thực thi quyền của chủ thể quyền hưởng dụng phải được pháp luật ghi nhận “rộng hơn”, cho phép chủ thể quyền hưởng dụng được phép chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn, thế chấp, để thừa kế cho chủ thể khác.[7]

4. Căn cứ xác lập quyền bề mặt theo quy định BLDS Việt Nam năm 2015

Tại Điều 268 BLDS Việt Nam năm 2015 quy định: “Quyền bề mặt được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc theo di chúc”. Theo đó, tương tự như các vật quyền khác, quyền bề mặt cũng có thể được xác lập thông qua việc thống nhất ý chí của các bên trong quan hệ dân sự. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định rõ ràng về việc các bên chỉ được thoả thuận làm phát sinh quyền bề mặt hay được thoả thuận cả về nội dung của quyền bề mặt. Về vấn đề này, tác giả đồng ý với quan điểm sự thoả thuận của các bên chỉ nên được coi là căn cứ làm phát sinh quyền về mặt, còn nội dung của quyền bề mặt thì các bên phải tuân thủ theo quy định của luật, bởi nếu các bên được quyền tự do thoả thuận thì tính chất “vật quyền” của quyền bề mặt không còn.[8]

Bên cạnh đó, việc quyền bề mặt xác lập theo quy định của pháp luật được đưa ra nhằm tạo cơ sở cho những văn bản pháp luật sẽ được ban hành liên quan đến việc xác lập quyền bề mặt theo quy định của pháp luật.[9] Tuy nhiên, trong Luật Đất đai năm 2013 hiện nay có một số quy định[10] cần được hướng dẫn để làm rõ vấn đề là những quy định này khác hay có mối liên hệ như thế nào với quyền bề mặt trong BLDS năm 2015.

Ngoài ra, trong thực tế, việc xác lập quyền bề mặt theo di chúc đến thời điểm hiện tại là chưa nhiều, bởi quan niệm truyền thống của người dân nước ta, khi chết đi thường để lại di chúc phân định tất cả các loại tài sản là động sản hoặc bất động sản cho con, cháu, chứ ít ai nghĩ tới việc để lại quyền bề mặt cho người còn sống. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, việc xây dựng tài sản có giá trị lớn như đất đai, trang trại nông sản… mà ý nguyện của người chủ sở hữu trước khi chết vẫn muốn duy trì, phát triển tài sản này thì việc sử dụng đến quyền về mặt là một giải pháp hợp lý.[11

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội (2022), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 278.

[2] Phạm Văn Tuyết (2015), “Quyền sở hữu và các vật quyền khác trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Luật học, (số đặc biệt 6), tr. 95.

[3] Đỗ Văn Đại (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 262, 263.

[4] Nguyễn Minh Oanh (2017), “Xác lập vật quyền - Từ lý luận đến quy định của pháp luật”, Tạp chí Luật học, (5), tr. 37.

[5] Lê Đăng Khoa (2018), Hệ thống các vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 95.

[6] Đào Thị Tú Uyên (2017), Quyền hưởng dụng theo Bộ luật Dân sự năm 2015, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 79.

[7] Nguyễn Hoàng Long (2021), “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng quyền hưởng dụng, quyền bề mặt”, Tạp chí Công thương, (14), tr. 39.

[8] Nguyễn Thị Long (2018), “Quyền bề mặt trong pháp luật dân sự Việt Nam”. Tạp chí Luật học, (1), tr. 37.

[9] Lê Đăng Khoa (2017), “Quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Nghề luật, (4), tr. 25.

[10] Điều 183 Luật Đất đai năm 2013 có quy định về người Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc dù không phải chủ thể quyền bề mặt nhưng vẫn có những quyền năng giống chủ thể của quyền bề mặt như: “thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất; bán tài sản thuộc quyền sở hữu của mình gắn liền với đất thuê…”

[11] Lê Đăng Khoa (2018), tlđd, tr. 114.

Các tin khác