0240.73088281
Logo

Các quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần

Ở Việt Nam, sau năm 1986 khi thực hiện công cuộc đổi mới, các CTCP đã được hình thành. CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Mỗi cổ phần mang lại cho cổ đông những quyền và nghĩa vụ nhất định trong công ty với tư cách họ là những người sở hữu công ty. Một trong những quyền cơ bản không thể không kể đến của cổ đông trong CTCP đó là quyền được chuyển nhượng cổ phần. Vậy cụ thể quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông là gì và pháp luật về doanh nghiệp hiện nay quy định như thế nào về quyền trên?

I. Khái quát chung về cổ phần trong CTCP.

1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phần.

Cổ phần là vấn đề pháp lý cơ bản của CTCP. Cổ phần mang bản chất là quyền tài sản được thể hiện bằng cổ phiếu, nó là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty[1]. Tại điểm a khoản 1 Điều 110 quy định: "Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần".

Cổ phần có những đặc điểm sau:

-  Cổ phần là một đơn vị biểu hiện quyền sở hữu tài sản trong công ty, nó là căn cứ pháp lí xác lập tư cách thành viên của công ty. Người sở hữu cổ phần là cổ đông của công ty, nó có hiệu lực tuyệt đối, người nắm giữ cổ phần có đầy đủ quyền năng và duy nhất, trực tiếp thực hiện quyền của mình đối với công ty. Từ cổ phần sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các cổ đông.

-  Cổ phần được xác định mệnh giá do công ty quyết định và ghi vào cổ phiếu. Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần, giá chào bán cổ phần do Hội đồng quản trị của công ty quyết định.

-  Tính không thể phân chia bởi cổ phần là phần vốn nhỏ nhất và bằng nhau trong vốn điều lệ.

-  Tính dễ dàng chuyển nhượng. Khi một người đã góp vốn vào công ty thì họ không có quyền rút vốn khỏi công ty, trừ trường hợp công ty giải thể. Vì vậy, một thành viên công ty nếu không muốn ở công ty thì chỉ có cách là chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Trong CTCP, việc chuyển nhượng cố phần rất dễ dàng, thuận tiện đã tạo ra cho CTCP có cấu trúc vốn mở và cổ đông trong CTCP thường xuyên thay đổi.

2. Các loại cổ phần.

Cổ phần của CTCP cơ bản gồm các loại:

-  Cổ phần phổ thông là loại cổ phần mà CTCP bắt buộc phải phát hành và người nắm giữ cổ phần phổ thông sẽ trở thành cổ đông phổ thông. Loại cổ phần này thể hiện tuyệt đối quyền làm chủ công ty.

-  Cổ phần ưu đãi gồm có những loại sau:

·  Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông, số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định.

·  Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh hằng năm của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức thanh xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.

·  Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.

Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi, nhưng cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.

II. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.

1. Khái niệm pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.

Chuyển nhượng cổ phần là việc cổ đông chuyển một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mà mình đang nắm giữ cho người khác (có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông của CTCP). Việc chuyển nhượng cổ phần từ một cổ đông của CTCP không phải là chuyển nhượng giá trị tài sản đã đem góp vốn của họ trong CTCP mà là chuyển nhượng giá trị phần quyền sở hữu CTCP của mình cho người khác[2].

Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thay đổi quyền sở hữu cổ phần cũng như quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong CTCP.

2. Nội dung pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.

2.1.  Quy định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng cổ phần.

Thứ nhất là quy định đối với cổ phần phổ thông. Tại điểm d khoản 1 Điều 114 Luật doanh nghiệp 2014 quy định cổ đông phổ thông có quyền "Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126". Theo đó, cổ phần phổ thông được tự do chuyển nhượng nhưng bị hạn chế bởi một số ngoại lệ. Cụ thể như sau:      

Ngoại lệ thứ nhất là đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập khi có được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng sẽ không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. Số cổ phần phổ thông bị hạn chế chuyển nhượng là số cổ phần phổ thông mà cổ đông mua khi góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 119: "Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp", không áp dụng đối với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Sau 03 năm thì quy định hạn chế này không còn.

Việc quy định như trên nhằm đảm bảo các cổ đông sáng lập sẽ không tự ý rời bỏ công ty khi công ty mới thành lập, duy trì sự ổn định để CTCP phát triển, do khi mới thành lập, các cơ quan quyền lực trong CTCP chưa thể hoàn thiện ngay lập tức. Đồng thời cũng hạn chế sự xuất hiện của "người lạ" vào công ty, bảo vệ các cổ đông mới nhận chuyển nhượng cổ phần trước những nguy cơ xuất hiện hành vi lừa dối, gian lận của bên chuyển nhượng.

Ngoại lệ thứ hai là khi Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp này khi Điều lệ công ty có quy định về hạn chế chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng. Nếu trong Điều lệ công ty có quy định về hạn chế chuyển nhượng cổ phần nhưng lại không ghi trên cổ phiếu của cổ phần tương ứng thì quy định đó sẽ không có hiệu lực, do đó cổ đông vẫn có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình.

Quy định này làm tăng thêm quyền quyết định của thành viên trong công ty cũng như đề cao vai trò của Điều lệ công ty, tức là đề cao tính thỏa thuận của các chủ thể tham gia thành lập công ty.

Thứ hai là quy định đối với cổ phần ưu đãi. Tùy từng loại cổ phần ưu đãi khác nhau sẽ có những quy định về việc chuyển nhượng cổ phần khác nhau.

Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết, tại khoản 3 Điều 116 có quy định "Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác". Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết[3]. Theo đó, các cổ đông này không được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết của mình cho người khác. Tuy nhiên, ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong vòng 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Còn đối với ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ ủy quyền thì không có quy định giới hạn về thời gian có hiệu lực.

Tương tự như những hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập trong vòng 03 năm đầu, việc quy định như trên đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết cũng nhằm giúp doanh nghiệp ổn định khi vừa mới thành lập và hoạt động bằng việc hạn chế sự thay đổi trong cơ cấu, quyết định của doanh nghiệp.

Đối với cổ phần ưu đãi cổ tức, tại điểm c khoản 2 Điều 117 quy định cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức có "Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này". Như vậy, cổ phần ưu đãi cổ tức cũng được tự do chuyển nhượng như cổ phần phổ thông, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác về việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Có thể thấy cổ phần ưu đãi cổ tức chỉ mang giá trị về mặt tài sản, tức là được nhận nhiều cổ tức hơn so với các loại cổ phần khác, không mang tính chất ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty do cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát[4].

Đối với cổ phần ưu đãi hoàn lại, tại khoản 2 Điều 118 quy định "Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại có các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này". Tương tự như cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại cũng được tự do chuyển nhượng như cổ phần phổ thông, chỉ trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng đối với loại cổ phần này. Quy định như trên do cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại cũng không có ảnh hưởng lớn đến công ty, họ cũng không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông hay đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Do đó các quy định về chuyển nhượng cổ phần đối với loại cổ phần ưu đãi này cũng dễ dàng và ít bị hạn chế hơn.

2.2.  Quy định pháp luật về hình thức chuyển nhượng cổ phần.

Tại khoản 2 Điều 126 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định: "Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán". Như vậy có hai cách để thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần đó là bằng hợp đồng hoặc bằng giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Thứ nhất, chuyển nhượng cổ phần theo cách thông thường bằng hợp đồng. Trong trường hợp này, các bên tham gia việc chuyển nhượng sẽ tuân thủ theo quy định của pháp luật hợp đồng được quy định trong BLDS. Nội dung định đoạt cổ phần chính là nội dung của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Một hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có thể bao gồm nhiều điều khoản, gồm điều khoản do các bên thỏa thuận và điều khoản do pháp luật quy định. Trong đó bắt buộc phải có những nội dung căn bản như đối tượng chuyển nhượng (chính là số cổ phần thuộc sở hữu của cổ đông), số lượng cổ phần chuyển nhượng, giá và phương thức thanh toán (có thể do các bên tự thỏa thuận), quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Bên cạnh đó, yêu cầu đối với chuyển nhượng bằng hợp đồng là giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ kí. Nếu không đáp ứng yêu cầu này thì việc chuyển nhượng cổ phần sẽ không có hiệu lực.

Các hành vi chuyển nhượng khác như thừa kế, tặng cho cũng thuộc hình thức chuyển nhượng này:

Đối với trường hợp thừa kế cổ phần, khoản 3 Điều 126 có quy định: "Trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty". Như vậy, người thừa kế của cá nhân đã chết là cổ đông của CTCP thì từ số cổ phần được thừa kế sẽ xác lập cho họ tư cách thành viên công ty. Tuy nhiên, trường hợp cổ phần của cổ đông là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự[5]. Theo quy định tại Điều 622 BLDS năm 2015, trường hợp không có người nhận thừa kế thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản sẽ thuộc về Nhà nước:"Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước". Như vậy, nếu cổ đông là cá nhân chết mà không có người thừa kế thì số cổ phần đó sẽ thuộc về Nhà nước và Nhà nước sẽ trở thành cổ đông trong công ty.

Đối với trường hợp tặng cho cổ phần thì luật doanh nghiệp quy định "Cổ đông có quyền tặng cho một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác" theo khoản 5 Điều 126. Như vậy, người được tặng cho cổ phần sẽ trở thành cổ đông của công ty nếu đủ điều kiện. Ngoài ra, tại điều khoản này quy định cổ đông cũng có quyền "sử dụng cổ phần để trả nợ". Người được nhận trả nợ bằng cổ phần cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty. Việc tặng cho một phần hay toàn bộ cổ phần tùy thuộc vào ý chí của cổ đông sở hữu cổ phần đó mà không cần thiết phải có sự thỏa thuận giữa bên tặng cho và bên nhận tặng cho. Còn việc dùng cổ phần để trả nợ thì buộc phải có sự thỏa thuận giữa hai bên. Sử dụng cổ phần để trả nợ thực chất là việc chuyển quyền sở hữu số cổ phần mình nắm giữ cho chủ nợ, việc trả nợ dựa trên việc quy đổi giá trị của cổ phần theo giá thị trường hoặc theo thỏa thuận của hai bên.

Thứ hai là chuyển nhượng cổ phần thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trong trường hợp này, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu sẽ thực hiện theo quy định của Luật chứng khoán. Theo đó, các CTCP được bán cổ phần trên thị trường chứng khoán phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt về tính minh bạch tài chính, về khả năng sinh lời, phải được Ủy ban Chứng khoán thẩm định và phải tuân thủ các quy tắc kiểm toán theo pháp luật về chứng khoán.

Những quy định chặt chẽ này nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho người

mua, vì khi các công ty niêm yết bán cổ phần trên thị trường thì người mua không có điều kiện trực tiếp kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hóa. Sự can thiệp của Nhà nước trong việc thẩm định các CTCP đăng ký bán cổ phần là một chứng thực tin cậy để người mua trả giá mua hàng. Người mua thực hiện việc mua cổ phần chỉ qua các thông tin đã được Nhà nước kiểm định, người mua không nhìn thấy hàng hóa cụ thể, nếu các công ty này bị sai lệch thì có rất nhiều rủi ro đối với người mua. Điều này cho thấy pháp luật về chứng khoán phải hết sức cụ thể, phải được thực hiện đầy đủ để bảo vệ lợi ích cộng đồng người mua.

2.3.  Quy định pháp luật về hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng cổ phần.

Thứ nhất là hậu quả pháp lý đối với cổ đông chuyển nhượng cổ phần. Cổ đông sau khi đã chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình cho người khác hoặc đã chết sẽ không còn là cổ đông của công ty, tức là không còn tên trong Sổ đăng kí cổ đông. Ngoài ra, pháp luật cũng đã dự liệu trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phần cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại[6]. Lúc này cổ đông vẫn giữ một phần cổ phần của mình và là cổ đông với cổ phần ít hơn, đồng thời các quyền và nghĩa vụ của cổ đông có thể sẽ thay đổi, tương ứng với phần cổ phần còn lại mà mình sở hữu.

Thứ hai là hậu quả pháp lý đối với người nhận chuyển nhượng cổ phần. Người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ đông trong CTCP. Tuy nhiên, người nhận chuyển nhượng cổ phần bằng các hình thức trên chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông. Thông tin của cổ đông trong sổ đăng ký của cổ đông được quy định tại khoản 2 Điều 121 gồm: Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Tổng số cổ phần được quyền chào bán, loại cổ phần được quyền chào bán và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; Tổng số cổ phần đã bán của từng loại và giá trị vốn cổ phần đã góp; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với cổ đông là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính đối với cổ đông là tổ chức; Số lượng cổ phần từng loại của mỗi cổ đông, ngày đăng ký cổ phần.

Quy định này nhằm đảm bảo tính chặt chẽ trong việc quản lý cổ đông cũng như cổ phần của công ty. Khi trở thành cổ đông của công ty, người nhận chuyển nhượng được hưởng quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần cổ phần mà mình được chuyển nhượng.

III.  Đánh giá quy định pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.

1. Đánh giá quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.

Quy định về chuyển nhượng cổ phần trong Luật doanh nghiệp năm 2014 là một quy định mới, tiến bộ hơn so với các luật trước đó. Trong Luật doanh nghiệp năm 2005, không có quy định riêng cho việc chuyển nhượng cổ phần trong CTCP, việc chuyển nhượng được quy định chung với chào bán cổ phần tại Điều 87: "Các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện uỷ quyền của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông. Trường hợp chỉ chuyển nhượng một số cổ phần trong cổ phiếu có ghi tên thì cổ phiếu cũ bị huỷ bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại". Quy định tại Điều 87 vẫn còn nhiều thiếu xót và bất cập. Luật doanh nghiệp 2014 đã sửa đổi và bổ sung nhằm hoàn thiện hơn. Việc tách chuyển nhượng cổ phần với chào bán cổ phần, thể hiện đây là hai việc độc lập, khác biệt nhau, từ đó tạo ra sự rõ ràng hơn trong cơ chế của pháp luật. Bên cạnh đó cũng dự trù được các trường hợp chuyển nhượng đặc biệt khác trong chuyển nhượng cổ phần và quy định chính xác hơn về cách thức chuyển nhượng bằng hợp đồng hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Tuy nhiên bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng cổ phần vẫn còn một số những hạn chế nhất định có thể kể đến như:

Thứ nhất, ngoài những trường hợp pháp luật hạn chế chuyển nhượng cổ phần, thực tế tại một số CTCP, Hội đồng quản trị không cho phép cổ đông công khai việc chuyển nhượng cổ phần hoặc chỉ cho phép chuyển nhượng cổ phần trong nội bộ CTCP. Điều này đã dẫn đến tình trạng chuyển nhượng ngầm. Cổ đông thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần chỉ thông qua giấy viết tay mà không làm các thủ tục chuyển nhượng tại CTCP. Tại một số CTCP khác tuy không hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần nhưng lại gây khó khăn cho cổ đông trong việc hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng cổ phần. Điều này đã xâm phạm nghiêm trọng các quyền và lợi ích của cổ đông được pháp luật bảo vệ.

Thứ hai, trên thực tế áp dụng pháp luật ghi nhận còn nhiều bất cập về thủ tục ghi nhận thông tin người nhận chuyển nhượng sau khi hoàn tất các nghĩa vụ vào Sổ đăng ký cổ đông. Có nhiều CTCP không thực hiện đúng thủ tục ghi nhận tư cách cổ đông sau khi cổ đông đã hoàn tất thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Từ đó tiếp tục gây ra nhiều tranh chấp và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của cổ đông trong CTCP.

Thứ ba, khi thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần, các bên cần tuân thủ đúng nguyên tắc, thủ tục và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp các bên vi phạm nghĩa vụ trong việc chuyển nhượng, khiến giao dịch chuyển nhượng bị vô hiệu.

Thứ tư, việc không giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đại biểu quyết đối với tổ chức được Chính phủ ủy quyền tạo ra sự bất bình đẳng đối với các cổ đông sáng lập cũng nắm giữ loại cổ phần ưu đãi này, dễ dẫn đến nguy cơ Nhà nước dùng quyền lực để gây áp lực đối với CTCP.

Thứ năm, cổ phần chỉ là một quyền tài sản, tức là một tài sản vô hình . Bên nhận chuyển nhượng sẽ tự nhận định về giá trị của cổ phần mà không có bất cứ quy định đảm bảo nào để bảo vệ lợi ích của mình.

2. Một số giải pháp hoàn thiện thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.

Để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản như:

Thứ nhất, cần tăng cường sự quản lý của Nhà nước nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông. Chức năng quản lý của Nhà nước đối với hoạt động chuyển nhượng trong CTCP chỉ là tạo môi trường pháp lý thuận lợi, hướng dẫn, điều tiết và xử lý vi phạm. Nhà nước cần tôn trọng và tạo điều kiện cho việc tự do lựa chọn của các bên trong hoạt động chuyển nhượng cổ phần

Thứ hai, kiến nghị các nhà làm luật nên xóa bỏ quy định CTCP xác nhận tư cách cổ đông vào Sổ đăng ký cổ đông đối với trường hợp nhận chuyển nhượng cổ phần sau thời hạn 03 năm kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Sau khi bên nhận chuyển nhượng hoàn tất mọi nghĩa vụ thì nên cho họ ngay tư cách cổ đông mới. Quy định như vậy sẽ đảm bảo các nhà đầu tư yên tâm khi mua cổ phần mà không lo sợ rủi ro.

Thứ ba, các nhà làm luật nên quy định việc áp dụng tương tự pháp luật về các quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán trong hợp đồng mua bán vật cho hợp đồng mua bán quyền tài sản, cụ thể ở đây là mua bán cổ phần. Điều đó có nghĩa là trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần thì nghĩa vụ của người chuyển nhượng cũng giống như nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán vật, đặc biệt là các nghĩa vụ đảm bảo về các khuyết tật bị che giấu để bảo vệ lợi ích của bên nhận chuyển nhượng.

Thứ tư, nên có quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ ủy quyền để tạo ra sự bình đằng đối với cổ đông sáng lập cũng nắm giữ loại cổ phần này, khắc phục những trường hợp Nhà nước gây áp lực hoặc can thiệp quá sâu vào CTCP.

Thứ năm, cần có các quy định cụ thể rõ ràng về chế tài xử lý vi phạm khi có vi phạm xảy ra đối với quyền lợi của cổ đông trong CTCP, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong CTCP. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà pháp luật đưa ra các chế tài xử lý thích hợp như bồi thường thiệt hại, xử phạt hành chính hoặc nghiêm trọng hơn thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự.

Có thể thấy, mặc dù hiện nay có rất nhiều hình thức doanh nghiệp đa dạng, nhưng phổ biến và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thì vẫn phải kể đến CTCP. Việc quy định rõ ràng các vấn đề liên quan đến CTCP sẽ giúp cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động tốt và mang lại hiểu quả tích cực. Đặc biệt là các quy định về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP. Các quy định này tuy đã có những tiến bộ nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến chính CTCP cũng như quyền và lợi ích của các bên tham gia chuyển nhượng. Do đó cần phải thực hiện những giải pháp phù hợp để khắc phục những khuyết điểm trên nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, tập 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2019.

[2] Hà Thiên Thư, Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018.

[3] Khoản 3 Điều 113 Luật doanh nghiệp 2014.

[4] Khoản 3 Điều 117 Luật doanh nghiệp 2014.

[5] Khoản 4 Điều 126 Luật doanh nghiệp năm 2014.

[6] Khoản 6 Điều 126 Luật doanh nghiệp 2014.

Các tin khác