0240.73088281
Logo

Các chế tài thương mại và hậu quả pháp lý khi áp dụng các chế tài thương mại

Để đảm bảo khung pháp lý cho hoạt động thương mại, Nhà nước sử dụng hàng loạt các công cụ pháp lý điều chỉnh quan hệ thương mại như xây dựng các quy phạm pháp luật, quy tắc, tiêu chuẩn tiến hành các hoạt động thương mại; kiểm soát việc thực thi các quyền đó; áp dụng các hình thức chế tài đối với người vi phạm pháp luật…[1] Do đó, chế tài thương mại có thể coi là một trong những yếu tố không thể thiếu nhằm điều chỉnh và đảm bảo việc tuân thủ các quy phạm pháp luật trong quan hệ kinh doanh, thương mại. Mỗi chế tài thương mại sẽ lại dẫn đến một hậu quả pháp lý khác nhau. Vậy cụ thể chế tài thương mại là gì cũng như hậu quả pháp lý của từng chế tài thương mại đó ra sao?

 

[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 281.

I. Khái quát chung về chế tài thương mại

1.1. Khái niệm chế tài thương mại

Chế tài được hiểu là một trong ba bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật, cụ thể là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm với các quy tắc xử sự chung được ghi nhận trong phần quy định và giả định của quy phạm pháp luật.[1] Theo nghĩa khái quát hơn, để đảm bảo việc thực hiện pháp luật, chế tài là các biện pháp cưỡng chế nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.

Như vậy, chế tài trong lĩnh vực thương mại hay chế tài thương mại được hiểu là các biện pháp cưỡng chế nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật thương mại. Hay nói cụ thể hơn, chế tài thương mại xác định hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại.[2]

Căn cứ vào các hình thức chế tài thương mại quy định tại Điều 292 Luật thương mại năm 2005 thì chế tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam là chế tài do có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, là sự gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng.[3] Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý đầu tiên cho việc áp dụng chế tài vi phạm hợp đồng.[4] Theo quy định tại khoản 12 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 thì "Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này". Do đó khi có hành vi vi phạm như trên thì sẽ áp dụng các chế tài thương mại.

Chế tài thương mại có những đặc điểm cơ bản như sau: (i) Luôn mang tính cưỡng chế nhà nước đối với người vi phạm pháp luật thương mại; (ii) Được thể hiện trong văn bản quy phạm pháp luật thương mại; (iii) Là hình thức trách nhiệm của một bên trong quan hệ hợp đồng trong thương mại đối với bên kia của hợp đồng, trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; (iv) Chế tài trong thương mại chủ yếu mang tính tài sản.

1.2. Phân loại chế tài thương mại.

Căn cứ vào tính chất của các chế tài thương mại, có thể phân các chế tài thương mại thành ba nhóm như sau:

Nhóm thứ nhất là chế tài nhằm đảm bảo việc thực hiện trên thực tế hợp đồng như đã thỏa thuận, cụ thể chính là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Nhóm thứ hai là chế tài mang tính chất vật chất nhằm khôi phục và bù đắp thiệt hại cho bên bị vi phạm, gồm chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Nhóm thứ ba là những chế tài mang tính chất tổ chức nhằm chấm dứt hoặc tạm chấm dứt việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng, gồm có chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và chế tài hủy bỏ hợp đồng. 

II. Các loại chế tài thương mại và hậu quả pháp lý khi áp dụng

2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một trong các bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng thì bên còn lại buộc phải có biện pháp để hợp đồng được thực hiện đúng như đã thỏa thuận. Trong trường hợp này, để đảm bảo các bên có thể đạt được lợi ích mà họ mong muốn từ việc ký kết hợp đồng thì cần phải có chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 297 Luật thương mại năm 2005 thì buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Cụ thể, buộc thực hiện đúng hợp đồng chính là một hình thức cưỡng chế của Nhà nước buộc bên vi phạm hợp đồng phải thực hiện đúng hợp đồng, mặc dù so với việc hợp đồng không bị vi phạm thì hậu quả pháp lý bất lợi hơn đối với bên vi phạm chỉ thể hiện ở việc bên vi phạm sẽ phải thực hiện hai chế tài được áp dụng đồng thời với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là bồi thường thiệt hại và phạt vi phạt.

Về bản chất, buộc thực hiện đúng hợp đồng là tạo điều kiện để bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng bằng việc gia hạn thực hiện nghĩa vụ cho bên vi phạm: "Bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình". Theo đó, buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ được thực hiện theo các bước như sau: (i) Bước 1 là khắc phục vi phạm để hợp đồng được thực hiện đúng theo thỏa thuận; (ii) Bước 2 được thực hiện khi Bước 1 không thể thực hiện được, đó là thay thế hàng hóa, dịch vụ đã thỏa thuận bằng hàng hóa, dịch vụ khác chủng loại hay trả bằng tiền.

Cũng cần lưu ý rằng khi áp dụng biện pháp này, bên bị vi phạm không có nghĩa vụ chứng minh là có thiệt hại xảy ra mà chỉ cần chứng minh lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi có được khi giao kết hợp đồng chưa được bên có nghĩa vụ đáp ứng. Mặt khác, biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng không phải trong mọi trường hợp đều được áp dụng, bởi nếu rơi vào trường hợp việc thực hiện hợp đồng là không thể trong thực tế hoặc pháp luật không cho phép thì bên có nghĩa vụ không thể thực hiện đúng hợp đồng.[5]

Hậu quả pháp lý của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ là hợp đồng tiếp tục được thực hiện trên thực tế đúng như thỏa thuận. Bên bị vi phạm sẽ phải tiếp tục thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình theo như nội dung trong hợp đồng.

Nếu các bên không có bất kỳ thỏa thuận nào khác thì trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác.[6] Đây là một trong những điểm tiến bộ của Luật thương mại năm 2005 so với Luật thương mại năm 1997 nhằm đảm bảo bên bán vẫn được bồi thường cho các tổn thất của mình và vẫn có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm để răn đe bên vi phạm khi có hành vi vi phạm hợp đồng.[7]

Ví dụ minh họa về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng:

Công ty cổ phần X ký kết hợp đồng mua 50 tấn gạo của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Y và thỏa thuận công Y phải giao hàng trong thời hạn là từ ngày 15/6/2020 đến hết ngày 15/7/2020. Tuy nhiên đến ngày 16/7/2020, công ty Y vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ giao 50 tấn gạo của mình cho công ty X. Như vậy, hợp đồng ký kết giữa công ty X và công ty Y là hợp đồng thương mại và công ty Y đã có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại, cụ thể là đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, công ty X đã áp dụng chế tài thương mại là buộc thực hiện đúng hợp đồng với công ty Y và cho công ty Y một khoảng thời gian là 5 ngày từ ngày 16/7/2020 đến hết ngày 20/7/2020 để công ty Y thực hiện nghĩa vụ giao 50 tấn gạo của mình. Công ty X khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng với công ty Y thì không có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại mà công Y đã gây ra mà chỉ cần lợi ích thực tế mà công ty X muốn có khi ký kết hợp đồng chưa đạt được, cụ thể là chưa nhận được 50 tấn gạo, thì hoàn toàn có thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng với công ty Y.

2.2. Phạt vi phạm và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Theo quy định tại Điều 300 Luật thương mại năm 2005 thì phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận. Phạt vi phạm chỉ xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng nên một bên không thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm nếu giữa các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng về vấn đề này.[8] Hay nói cách khác, có hành vi vi phạm và có thỏa thuận trong hợp đồng chính là căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm.

Ngoài ra, chế tài phạt vi phạm cũng sẽ không được áp dụng nếu bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm khi thuộc một trong các trường hợp: (i) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; (iii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm trong trường hợp này thuộc về bên vi phạm hợp đồng.

Luật thương mại năm 2005 cho phép các bên được thỏa thuận về mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 Luật thương mại năm 2005.

Ví dụ minh họa về chế tài phạt vi phạm:

Công ty X ký kết hợp đồng mua 5 tấn phôi thép của công ty Y với giá 7.000.000 đồng/tấn và hai bên đã có quy định cụ thể về chất lượng phôi thép mà công ty Y giao cho công ty X. Ngoài ra, trong hợp đồng giữa hai công ty có điều khoản thỏa thuận là công ty Y sẽ phải chịu phạt 7% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm nếu có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Công ty Y đã thực hiện việc giao 5 tấn phôi thép cho công ty X đúng thời hạn, số lượng với giá như đã thỏa thuận. Tuy nhiên trong số 5 tấn phôi thép công ty Y giao cho công ty X thì có 1 tấn phôi thép có chất lượng không đúng với chất lượng phôi thép mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, công ty X đã áp dụng chế tài phạt vi phạm đối với công ty Y do trong hợp đồng hai bên đã có thỏa thuận về điều khoản phạt vi phạm và công ty Y có hành vi vi phạm hợp đồng là không thực hiện đúng hợp đồng. Do đó, công ty Y phải chịu phạt một khoản tiền là 7% giá trị của 1 tấn phôi thép có chất lượng không đúng như đã thỏa thuận, cụ thể là 7% của 7.000.000 đồng là 490.000 đồng.

2.3. Buộc bồi thường thiệt hại và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 thì bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm pháp luật hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Hay nói cách khác, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm tài sản, theo đó, bên vi phạm hợp đồng dẫn tới gây thiệt hại phải trả một khoản tiền bồi thường cho bên bị vi phạm nhằm khôi phục lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm.[9] Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và những lợi ích trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ ba yếu tố sau: (i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; (ii) Có thiệt hại thực tế; (iii) Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất sẽ thuộc về bên yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời phải áp dụng các biện pháp hơn lý để hạn chế tổn thất và bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó.

Cả Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật thương mại năm 2005 đều có quy định về mối quan hệ giữa bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm. Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 418 có cách tiếp cận khác về việc áp dụng đồng thời phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại và việc áp dụng quy định nào sẽ phụ thuộc vào nguyên tắc luật chung – luật chuyên ngành.

Ví dụ minh họa về chế tài buộc bồi thường thiệt hại:

Như trong ví dụ giữa công ty X và công ty Y ở chế tài phạt vi phạm như đã nêu ở phần 2.2, công ty X trong trường hợp này có hoàn toàn có thể yêu cầu công ty Y bồi thường thiệt hại đối với 1 tấn phôi thép có chất lượng không đúng với chất lượng hàng hóa mà các bên đã thỏa thuận. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty X phải chịu do công ty Y gây ra là 7.000.000 đồng – giá của 1 tấn phôi thép và những lợi ích trực tiếp mà công ty X đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm của công ty Y. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công ty Y phát sinh khi có đủ 3 yếu tố: (i) Công ty Y có hành vi vi phạm hợp đồng là giao hàng không đúng chất lượng như đã thỏa thuận; (ii) Có thiệt hại thực tế đối với công ty X khi nhận hàng không đúng chất lượng đã thỏa thuận. Trong trường hợp này, công ty X có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất; (iii) Hành vi giao 1 tấn phôi thép không đúng chất lượng của công ty Y là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại đối với công ty X.

2.4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng nếu xảy ra một trong các trường hợp sau: (i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Theo khoản 13 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 thì vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

Theo quy định tại Điều 309 Luật thương mại năm 2005 thì hợp đồng khi bị tạm ngừng thực hiện thì vẫn còn hiệu lực và hoàn toàn có thể tiếp tục thực hiện, việc thực hiện nghĩa vụ chỉ bị tạm ngừng trong một khoảng thời gian nhất định. Trên thực tế, nguyên nhân nào khiến cho việc thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thì khi đã xử lý và loại trừ được nguyên nhân đó thì hợp đồng sẽ tiếp tục được thực hiện do Luật thương mại năm 2005 không quy định cụ thể về điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Khi áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.

Ví dụ minh họa về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng:

Công ty A ký kết hợp đồng với công ty B với nội dung hợp đồng là công ty A sẽ cung cấp bữa sáng hàng ngày cho nhân viên của công ty B. Trong hợp đồng hai bên có thỏa thuận là công ty B phải thanh toán cho công ty A chi phí dịch vụ mỗi tháng trong vòng 5 ngày cuối cùng của tháng đó và nếu công ty B chậm thanh toán thì sẽ tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng cho đến khi công ty B hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình. Đến ngày 31/1/2022, công ty B vẫn chưa thanh toán cho công ty A chi phí dịch vụ cung cấp bữa sáng tháng 1 cho nhân viên của công ty B. Trong trường hợp này công ty A hoàn toàn có thể áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng đối với công ty B bởi công ty B đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là chậm thanh toán chi phí dịch vụ cho công ty A và hành vi vi phạm này đã được các bên thỏa thuận là điều kiện để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Khi tạm ngừng thực hiện hợp đồng, công ty A không cần tiếp tục thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ của mình cho đến khi công ty B hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Hay nói cách khác là hợp đồng giữa A và B vẫn có hiệu lực và sẽ được tiếp tục thực hiện khi nguyên nhân của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không còn tồn tại.

2.5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau: (i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; (ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Đối với trường hợp thứ nhất, các bên thỏa thuận trước trong hợp đồng điều kiện để đình chỉ thực hiện hợp đồng và chỉ khi hành vi vi phạm đó xảy ra thì chế tài đình thực hiện hợp đồng mới được áp dụng. Về bản chất, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng giống chế tài đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định tại Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015.

Khác với tạm ngừng thực hiện hợp đồng, khi áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ, các bên không có cơ hội tiếp tục được thực hiện. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Ngoài ra, bên bị vi phạm còn có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại đối với phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Ví dụ minh họa về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng:

Công ty A ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ đối với ngân hàng B và trong hợp đồng các bên có thỏa thuận rằng nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, do sơ suất của công ty A mà để xảy ra tình trạng mất tài sản của ngân hàng B có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên thì hợp đồng giữa hai bên sẽ bị đình chỉ thực hiện. Ngày 16/5/2022, do sơ suất trong quá trình thực hiện dịch vụ theo hợp đồng của công ty A, ngân hàng B đã bị mất tài sản trị giá 60.000.000 đồng. Theo đó, ngân hàng B trong trường hợp này có thể áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng đối với công ty A vì đã xảy ra hành vi vi phạm mà hai bên thỏa thuận là điều kiện đình chỉ hợp đồng. Kể từ thời điểm hợp đồng bị đình chỉ, công ty A và ngân hàng B không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, ngân hàng B có thể yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại đối tài sản bị mất.

2.6. Hủy bỏ hợp đồng và hậu quả pháp lý khi áp dụng

Theo quy định tại Điều 312 Luật thương mại năm 2005, hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất các các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

Chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp: (i) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; (ii) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Trừ trường hợp hủy bỏ hợp đồng giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần thì sau khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

Khi hợp đồng bị hủy bỏ, các bên có quyền đòi lại lợi ích do đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời và trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Ngoài ra, bên bị vi phạm cũng có quyền yêu cều bên vi phạm bồi thường thiệt hại đối với phần nghĩa vụ bị vi phạm theo quy định pháp luật.

Ví dụ minh họa về chế tài hủy bỏ hợp đồng:

Công ty A ký kết hợp đồng dịch vụ với công ty B với nội dung là công ty B sẽ thực hiện dịch vụ trang trí hội trường mà công ty A tổ chức sự kiện vào ngày 15/6/2022 và việc thực hiện nghĩa vụ của công ty B phải hoàn thành trước 16h để công ty A có thể tiến hành tổ chức sự kiện theo kế hoạch. Công ty A đã thanh toán toàn bộ chi phí tổ chức sự kiện cho công ty B trước đó theo thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, đến 16h ngày 15/6/2022 thì công ty B vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng khiến cho công ty A không thể tổ chức sự kiện đúng kế hoạch. Trong trường hợp này công ty B đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng vì sự vi phạm hợp đồng của công ty B gây thiệt hại cho công ty A đến mức làm cho công ty A không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Do đó công ty A hoàn toàn có thể áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng đối với công ty B. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, công ty B  sẽ không cần thực hiện nghĩa vụ trang trí hội trường của mình nữa và phải hoàn trả lại số tiền mà công ty A đã thanh toán cho dịch vụ của công ty B trước đó. Ngoài ra, nếu có thiệt hại xảy ra đối với công ty A thì công ty B còn phải bồi thường thiệt hại khi có yêu cầu của công ty A.

Chế tài trong thương mại có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại.[10] Do đó, bên bị vi phạm hợp đồng sẽ có quyền yêu cầu bên vi phạm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bù đắp những thiệt hại mà bên vi phạm đã gây ra do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Đây chính là mục đích của việc thiết lập các chế tài trong thương mại. Việc tìm hiểu nội dung và hậu quả pháp lý đã cho chúng ta cái nhìn cụ thể, rõ ràng hơn về các chế tài trong thương mại. Bên cạnh những điểm tiến bộ thì các chế tài thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam vẫn còn tồn tại những bất cập nhất định. Do đó, pháp luật thương mại cần có những sửa đổi, bổ sung nhất định liên quan đến chế tài thương mại để khắc phục những bất cập, hạn chế còn tồn tại, hoàn thiện hơn nữa các quy định về chế tài thương mại trong tương lai.

Nguyễn Thị Lan Hương - Công ty Luật TNHH H&M

 

[1] Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 130.

[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 283.

[3] Hoàng Thị Hà Phương, Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2012, tr. 12.

[4] Phan Thùy Linh, Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại dưới góc độ so sánh pháp luật Việt Nam và Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2016, tr. 9.

[5] Nguyễn Thanh Tùng, Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại – Một số kiến nghị, Tạp chí Luật học, Hà Nội, 2015, số 7, tr. 68.

[6] Điều 299 Luật thương mại năm 2005.

[7] Hướng Thị Hà Thu, Pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2019, tr. 30.

[8] Nguyễn Bảo Linh, Chế tài do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2020, tr. 38.

[9] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 299.

[10] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, tập 2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 288.

Các tin khác